Tình Hình Sản Xuất Và Tiêu Thụ Nhãn Trên Thế Giới


đồng thời cũng ít kén đất hơn.Hiện nay có nhiều giống khác nhau như: nhãn trơ cùi cùi rất mỏng, nhãn nước nhiều nước, nhãn xuồng cơm vàng, Nhãn lồng Hưng Yên, Nhãn tiêu da bò…

1.1.2.2. Giá trị dinh dưỡng

Giá trị dinh dưỡng trong 100 g thịt nhãn gồm có: Nước (Water ): 86.3g

- Năng lượng: 48 Kcal (285kcal/100g nhãn khô) – Protein: 0.9g - Lipid: 0.1g - Glucid (Carbohydrate): 10.9g (65.9g/100g nhãn khô) - Celluloza (Fiber) : 1.0g

- Calci (Calcium) 21 mg - Sắt (Iron): 0.40 mg - Magiê (Magnesium): 10 mg - Mangan (Manganese): 0.1mg- Phospho (Phosphorous): 12mg - Natri (Sodium): 26mg - Kẽm (Zinc): 0.29 mg - Đồng (Copper): 150 μg - Vitamin C (Ascorbic acid): 58 mg - Vitamin B1 (Thiamine): 0.03mg - Vitamin B2 (Riboflavin): 0.14mg- Vitamin PP (Niacin): 0.3 mg. Nhãn rất giàu giá trị dinh dưỡng như năng lượng cao, giàu protein, đường thiên nhiên, các loại vitamin và khoáng chất như: vitamin C, B1, PP, kali, photpho, magie, sắt, axit hữu cơ, chất xơ, mang lại nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe. Đây là trái cây rất dễ ăn đồng thời cũng được dùng làm thuốc trong các bài thuốc đông y. (https://vi.wikipedia.org/wiki/Nhãn)

Theo Đông y Việt Nam, quả nhãn có công dụng chữa bệnh rất tốt. Ruột nhãn thường được phơi, sấy khô gọi là long nhãn, quế viên hay nguyên nhục, dùng làm vị thuốc chữa bệnh. Long nhãn được sử dụng dưới nhiều dạng như thuốc sắc, thuốc cao, thuốc hoàn, rượu thuốc… riêng rượu thuốc có thể ngâm phối hợp với các vị thuốc khác để bồi bổ cơ thể, chống mất ngủ, suy nhược thần kinh... và rất nhiều bệnh khác. Nhãn rất giàu vitamin C giúp đẹp da, tăng sức đề kháng chống lại các căn bệnh như cảm cúm, cảm lạnh. Nhãn tươi hoặc siro lấy từ cùi nhãn ngâm đường có thể sử dụng để phòng ngừa và điều trị bệnh đau dạ dày rất tốt. Cải thiện tuần hoàn máu, tăng cường hấp thu sắt, giúp hạn chế bệnh thiếu máu và các nguy cơ mắc bệnh ở tuyến tụy.

Theo Tuệ Tĩnh, long nhãn là vị thuốc có vị ngọt, tính ấm, bình, không độc, giúp trừ vi trùng lao, bổ ích tâm tỳ, làm tăng trí nhớ, tăng tuổi thọ cho


người già, cao tuổi. Sách của Hải Thượng Lãn Ông chép lại cũng rất đề cao vị thuốc từ quả nhãn. Ông cho rằng đây là vị thuốc uống nhiều thì mạnh chí, thông minh; dùng lâu thì nhẹ mình, trẻ lâu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

1.1.2.3. Đặc tính kỹ thuật của cây nhãn

Theo nghiên cứu của Nguyễn Hữu Hoàng và Lê Xuân Lâm (2010) cho thấy nhãn có tính thích ứng rộng, có thể trồng trên nhiều loại đất. Mùa quả là vào khoảng tháng 7, 8. Kỹ thuật trồng cây nhãn không khó đồng thời cây nhãn tương đối chịu rét hơn so với các cây cùng họ như vải, đồng thời cũng ít kén đất hơn. Nhãn là cây trồng cho năng suất cao tuy nhiên đòi hỏi phải đảm bảo kỹ thuật từ khâu chuẩn bị đất trồng, chăm sóc, bón phân... và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Sau đây là một số đặc tính kỹ thuật của cây nhãn.

Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển cây nhãn tại huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La - 3

* Nhân tố về điều kiện tự nhiên

- Nhiệt độ: Cây nhãn chịu được nóng và lạnh tốt nên được trồng ở các vùng trong cả nước. Nhiệt độ thích hợp từ 21°C - 27°C.

- Lượng mưa cần cho cây nhãn sinh trưởng và phát triển là 1200mm/năm. Độ ẩm không khí 70 - 80%. Thời kì phân hoá mầm hoa và phát triển quả cần nhiều nước. Là cây chịu hạn nhưng nếu bị ngập nước từ 3 - 5 ngày cùng không bị ảnh hưởng như các cây ăn quả khác.Nếu có đủ nước tưới thì nên trồng vào cuối mùa mưa, khoảng tháng 10 - 11 vì đến mùa nắng có đầy đủ ánh sáng cây sẽ phát triển tốt hơn. Nếu trồng vào mùa mưa, khoảng tháng 4 - 5 thì cần chú ý thoát nước vì nếu mưa nhiều đất bị lèn... nhãn bị chết do nghẹt rễ.

- Ánh sáng: Cây cần đủ ánh sáng, nhưng không ưa ánh sáng mạnh và chịu được bóng râm.

- Đất: Cây nhãn không kén đất nên trồng được trên nhiều loại đất, trong đó đất phù sa là thích hợp nhất. Bộ rễ nhãn chịu nước kém, nếu bị ngập trong thời gian dài sẽ bị thối rễ, chết cây. Do đó, muốn trồng nhãn cần chú ý đến việc bờ bao, cống bọng thoát nước cho nhãn trong mùa mưa lũ. Nên trồng nhãn trên mô, mô đất đắp thành hình tròn rộng 6 - 8 tấc, cao 5 - 7 tấc. Đất mô trộn với 10


- 15 kg phân chuồng hoai, tro trấu, 0,5kg phân lân (nên sử dụng lân Ninh Bình hoặc lân Văn Điển) và nên chuẩn bị mô từ 15 - 30 ngày trước khi trồng.

* Nhân tố kỹ thuật

- Giống

+ Nhãn tiêu da bò: Có các giống như tiêu huế, tiêu lá bầu, tiêu đường,... là những giống nhãn đang được nhà vườn ưa chuộng do có nhiều ưu điểm như cây phát triển nhanh, năng suất cao, dễ xử lý ra hoa trái vụ, 2 năm có thể cho 3 vụ trái. Trái chín có màu da bò, cơm khá dày hơi dai, ít nước, ngọt vừa, ít mùi thơm. Nhãn long: Là giống nhãn dễ trồng, cho năng suất cao, mỗi năm cho 2 vụ trái; nhưng phẩm chất không cao, không được ưa chuộng do hạt to, cơm mỏng, nhiều nước,...

+ Nhãn giồng da bò: Trồng chủ yếu ở những vùng đất cát giồng, là giống nhãn có phẩm chất khá ngon, cơm ráo, dày cơm. Nhãn giồng mỗi năm chỉ cho 1 vụ trái nên năng suất không cao. Nhãn xuồng cơm vàng được bà con khá ưa chuộng do rất dày cơm, trái to nhưng năng suất cũng không cao.

+ Ngoài ra còn có các giống nhãn khác như Super, nhãn hồng, thái long tiêu, Dona, Hưng Yên, Nhãn lồng, nhãn đường phèn, nhãn nước, nhãn Vĩnh Châu,...

- Nhân giống

+ Gieo hạt: (chủ yếu để làm gốc ghép) Hạt lấy về cần xử lý gieo ngay. Ngâm hạt nửa ngày, vớt ra, ngâm vào nước vôi trong, sau 2-3 giờ vớt ra, ủ vào đất cát ẩm 2-4 ngày. Khi ngâm hạt nhú ra đem gieo.

+ Chiết cành: Là phương pháp nhân giống phổ biến nhất vì cây chiết có nhiều ưu điểm như mau cho trái, cây con giữ được đặc tính tốt của cây mẹ, có bộ rễ ăn cạn nên thích hợp với vùng đất có mực thủy cấp cao như ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tuy nhiên, cây chiết cũng có mặt hạn chế là cây mau già, dễ bị đổ ngã nếu bị gió bão vì bộ rễ ăn cạn, phương pháp này có hệ số nhân giống thấp,...


+ Tháp bo: Đây là phương pháp đang được nông dân sử dụng để cải tạo những vườn nhãn cũ. Thường tháp bo nhãn tiêu da bò hoặc nhãn xuồng lên gốc long nhãn, sau khi xác định việc tháp bo đã thành công thì tiến hành cắt bỏ toàn bộ tán cây nhãn long phía trên chỗ tháp. Cây nhãn long 1-2 năm tuổi thì có thể tháp trực tiếp lên gốc, cây lớn hơn thì tháp lên cành, nhưng không nên tháp ở vị trí cao và cành lớn vì dễ bị tét, gãy nhánh sau này.

- Cách trồng

Khoảng cách: Nhãn tiêu thường được trồng với khoảng cách 8 - 10m, nhãn long 6 - 8m. Trong những năm đầu, khi cây chưa giao tán, có thể trồng xen những cây ngắn ngày như rau, đậu, ổi, đu đủ hoặc trồng nhãn dày hơn với khoảng cách 4m/cây. Đến khi giáp tán thì tỉa bỏ cây giữa.

Cách trồng: Khoét lỗ trên mô vừa với bầu cây con, nhẹ nhàng xé bỏ bọc nylon rồi đặc bầu cây vào lỗ lấp đất lại vừa khuất mặt bầu, ém đất xung quanh gốc, cắm cọc để buộc cây con vào (để tránh rễ bị lung lay dễ làm đứt rễ, cây con phát triển kém, nếu đứt nhiều rễ, cây sẽ chết) và tưới đẫm nước, sau đó thường xuyên giữ ẩm cho cây.

- Chăm sóc

+ Đắp mô, bồi liếp: Trong hai năm đầu, hàng năm cần đắp thêm đất khô vào chân mô, giúp mô cao hơn, rộng hơn. Tới năm thứ ba trở đi, hàng năm nên vét bùn non ở đáy mương bồi thêm một lớp mỏng 2-3cm ngay sau khi làm gốc, bón phân, nếu trồng nhãn trên đất thịt pha sét thì hàng năm nên bón thêm phân hữu cơ giúp đất thông thoáng hơn, tạo điều kiện tốt cho bộ rễ phát triển.

+ Làm cỏ, xới xáo: Cần thường xuyên làm cỏ để tránh cạnh tranh dinh dưỡng, hạn chế sự cư trú, xâm nhập của sâu bệnh gây hại. Kết hợp xới xáo đất giúp đất thông thoáng nhằm giúp bộ rể tăng cường trao đổi chất, không dùng cuốc lưỡi và không xới sâu vì làm tổn thương bộ rễ. Tuyệt đối không diệt cỏ bằng các hóa chất trong vườn nhãn nói riêng và vườn cây ăn trái nói chung.


+ Tưới, tiêu nước: Nhãn rất cần nước, nếu được tưới đầy đủ nhãn sẽ phát triển nhanh, ra hoa, kết trái tốt. Nhưng nhãn là cây chịu úng kém nên cần có hệ thống thoát nước trong mùa mưa. Đối với những vườn có nguy cơ bị ngập trong mùa mưa lũ thì nên có hệ thống bờ bao vững chắc, kịp thời bơm nước ra khỏi vườn khi cần thiết.

+ Bón phân: Tùy vào tình trạng cây, tuổi cây, điều kiện đất đai mà có chế độ bón phân khác nhau. Cây 1 - 3 năm tuổi: mỗi năm bón 1 - 1,5kg/gốc loại phân NPK 20 - 20 - 15. Lượng phân này được chia đều làm 3 - 4 lần bón trong năm, năm đầu nên pha phân vào nước tưới. Cây trên 3 năm tuổi: Cây càng lớn lượng phân bón càng tăng, năm trúng mùa bón nhiều hơn năm thất mùa. Trung bình, mỗi năm bón cho mỗi gốc 3 - 5kg loại phân PNK 15 - 10 - 15 hoặc 20 - 20 - 15.

- Điều khiển ra hoa

Cắt bớt đọt cành cũ dài khoảng 10-20 cm kể từ đọt cành để kích thích cây ra đọt mới. Sau khi cắt 10-15 ngày nhánh sẽ ra đọt non đầu tiên lúc này tiến hành bón phân. Khoảng 10-15 ngày sau khi cắt, cành sẽ cho ra đọt non đầu tiên, bón phân cho cây. Khi lá đọt non bắt đầu chuyển sang màu xanh thì tiến hành khoanh vỏ để kích thích cho cây ra hoa. Dùng dao hay cưa khoanh vỏ theo đường xoắn ốc (hai đầu vết khoanh không liền nhau) trên cành chính, chiều rộng vết khoanh khoảng 5mm, cạn để cành mau tái tạo tượng tầng libe gỗ (sau 1-1,5 tháng là vừa).

Có thể dùng dây nylon hay băng keo băng vết khoanh lại để hạn chế cành liền vỏ nhanh làm giảm ảnh hưởng ra hoa. Tránh khoanh gốc vì cây dễ bị suy kiệt và chết. Chú ý chỉ khoảng 2/3 hoặc 3/4 số cành. Chừa lại một cành để nuôi rễ. Sau khi khoanh vỏ tưới nước thường xuyên, hạn chế bón phân (nhất là phân đạm) trong giai đoạn này vì sẽ làm cây ra lá nhiều hơn ra hoa. Bắt đầu bón phân trở lại sau khi trái có đường kính khoảng 1 cm. Thời gian khoanh gốc đến ra hoa khoảng 1-1,5 tháng.


- Thu hoạch

Khi vỏ quả chuyển từ màu nâu hơi xanh sang màu nâu sáng, vỏ quả hơi sù sì hơi dày chuyển sang mọng và nhẵn, bóc quả xem thấy hạt có màu nâu đen (trừ giống có hạt màu đỏ) thì có thể thu hoạch. Nên thu hoạch quả vào ngày trời tạnh ráo, vào buổi sáng và buổi chiều, tránh thu hoạch vào đúng giữa trưa khi trời quá nóng.

Không cắt trụi hết cành lá của cây vì có thể ảnh hưởng đến khả năng nảy lộc vụ sau. Đối với những cây nhãn có tình trạng sinh trưởng khỏe hoặc đối với những giống chín sớm, cắt chùm quả có kèm theo một đoạn cành quả chỗ có lá mọc sít nhau. Đối với những cây nhãn có tình trạng sinh trưởng yếu hoặc đối với những giống chín muộn, cắt chùm quả không kèm theo lá của cành quả. Khi thu hoạch quả, nên có thang và sử dụng kéo cắt chùm quả để tránh gãy cành. (Nguyễn Hữu Hoàng, Lương Xuân Lâm, 2010)

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ nhãn trên thế giới

Từ lâu, cây nhãn được trồng nhiều ở Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước vùng Đông Nam châu Á như Thái Lan, Malaisia, Philippin và Việt Nam. Đến thế kỷ XIX, cây nhãn được di thực đến một số vùng thuộc châu Mỹ, châu Phi và châu Đại Dương.

Trung Quốc là nước có diện tích trồng nhãn nhiều nhất thế giới với các vùng trồng tập trung tại Phúc Kiến, Quảng Tây, Quảng Đông, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Hải Nam và Đài Loan. Trong đó, Phúc Kiến là nơi trồng nhiều và lâu đời nhất, chiếm 48,7% diện tích của cả nước. Tại đây, còn tồn tại những vườn nhãn trên 100 năm, đặc biệt có một số cây trên 380 năm. Tuy nhiên, do cây nhãn chỉ được trồng ở một số tỉnh phía nam nên Trung Quốc vừa là nước sản xuất nhiều nhất, đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ nhãn lớn nhất thế giới.

Tại Đài Loan, đến năm 1998, diện tích trồng nhãn chỉ đạt 11.808 ha và tổng sản lượng 53.385 tấn. Đến năm 2002, diện tích trồng tăng không đáng kể nhưng tổng sản lượng tăng hơn 2 lần, đạt tới 110.925 tấn.

Ở Thái Lan, nhãn được trồng chủ yếu ở vùng Đông Bắc và Đồng bằng


miền Trung. Vùng trồng nhãn chính là Lamphun, Chieng Mai, Chieng Rai, Nan, Phra Yao, Lampang, Phrae và Chanthaburi. Thái Lan là nước xuất khẩu nhãn lớn nhất thế giới, khoảng 50% tổng sản lượng nhãn của cả nước. Sản phẩm xuất khẩu bao gồm nhãn quả tươi, nhãn sấy khô, nhãn đông lạnh và nhãn đóng hộp. Các nước nhập khẩu nhãn từ Thái Lan là Hồng Kông, Canada, Indonexia, Singapo, Anh và Pháp.

Tại Mỹ, cây nhãn là loại cây ăn quả mới được di thực và trồng từ những năm đầu thế kỷ XX với các giống được đưa sang từ Thái Lan và Trung Quốc. Tổng diện tích nhãn ước tính dưới 200 ha. Vùng trồng nhãn chính là phía Nam bang Florida.

Đến năm 1995, cây nhãn mới được di thực đến Australia. Cho đến nay, sản xuất nhãn của nước này mới chỉ đạt diện tích 200 ha và sản lượng 1000 tấn quả tươi.

Cây nhãn còn được trồng với diện tích nhỏ ở một số nước vùng Đông Nam châu Á. Tuy nhiên, cũng giống như sản xuất nhãn tại Mỹ và Australia, nhãn quả tươi của những nước này được tiêu thụ chủ yếu tại thị trường địa phương. (Trần Thế Tục, 2009)

1.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ nhãn ở Việt Nam

Nhãn là cây ăn quả được chú trọng phát triển ở hầu khắp các vùng miền trong cả nước. Ở miền Bắc, từ lâu đã hình thành những trồng nhãn nổi tiếng ở Hưng Yên và Hà Tây cũ.

Theo số liệu thống kê của Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp (2007), sản xuất nhãn chỉ đứng thứ 2 sau sản xuất chuối về diện tích trồng và đứng thứ 3 sau chuối và cam về sản lượng. Tính đến năm 2007, tổng diện tích nhãn của cả nước đạt 97.900 ha , phân bổ ở 8 vùng sản xuất bao gồm Đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Các vùng trồng có diện tích lớn là Đồng bằng sông Cửu Long (35.900 ha), Tây


Bắc (16.800 ha) và Đông Nam bộ (16.500 ha). Trong số trên 60 tỉnh thành trồng nhãn trong cả nước, tỉnh Sơn La có diện tích trồng nhãn lớn nhất là 13.500 ha. Trong đó, diện tích cho thu hoạch là 9.800 ha, đạt năng suất bình quân 4,0 tấn/ha và sản lượng 39.400 tấn/năm.

Năng suất nhãn bình quân của cả nước hiện rất thấp, chỉ đạt 7,08 tấn/ha. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt năng suất cao nhất (10,1 tấn/ha), tiếp theo là Đồng bằng sông Hồng (9,2 tấn/ha) và Tây Nguyên (8,0 tấn/ha). Vùng Duyên hải Nam Trung bộ đạt năng suất thấp nhất (1,5 tấn/ha). Tổng sản lượng nhãn năm 2007 của cả nước khoảng 578.000 tấn. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt sản lượng lớn nhất là 340.900 tấn.

Sản xuất nhãn của nước ta phục vụ nhu cầu tiêu thụ quả tươi ở trong nước là chính nên giá trị hàng hoá không cao. Những năm được mùa, quả nhãn mất giá và khó tiêu thụ. Sản phẩm nhãn sấy khô được bán sang Trung Quốc bằng con đường tiểu ngạch. Theo tài liệu của Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Hưng Yên, nhãn chế biến đồ hộp chiếm 5%, nhãn sấy khô 45% và nhãn quả tươi 50%.

Trước đây, cây nhãn đa số đều được nhân giống bằng phương pháp gieo hạt, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc nên cây rất cao, năng suất không ổn định, quả nhỏ, chất lượng quả kém, mã quả xấu và sâu bệnh phá hại nặng, do vậy hiệu quả kinh tế của các vườn nhãn rất thấp (Trần Thế Tục, 2009).

1.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan

1.3.1. Nghiên cứu thúc đẩy tăng năng xuất nhãn

- Sử dụng KClO3 riêng rẽ hoặc kết hợp khoanh cây, cành xử lý cho nhãn ra hoa trái vụ hoặc ra hoa đồng loạt đã được thực hiện tại Viện nghiên cứu Rau quả, Viện cây ăn quả miền Nam và một số vùng trồng nhãn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Áp dụng biện pháp kỹ thuật tỉa cành bấm ngọn kết hợp với phân bón lá, phân hoá học sau khi thu hoạch 10 ngày nhãn sẽ ra được hai đợt lộc dài, to và khoẻ. Khi lá chuyển sang màu đậm tiến hành xử lý KClO3

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 05/08/2022