Đánh giá thực trạng trồng rừng sản xuất tại huyện Lục Ngạn - Bắc Giang và đề xuất các giải pháp phát triển - 13


Bên cạnh đó, cần có chính sách hỗ trợ sử dụng các giống và kỹ thuật mới, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, đẩy mạnh hoạt động khuyến lâm, gắn kết chặt chẽ giữa các đơn vị sản xuất với các cơ quan nghiên cứu khoa học như Trường Đại học Lâm nghiệp và Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam để hỗ trợ kỹ thuật và dịch vụ khoa học.

- Có hướng dẫn cụ thể và bổ sung chính sách khuyến khích thu hút các thành phần kinh tế đầu tư trồng RSX

Các luật khuyến khích đầu tư trong nước (1994) và đầu tư nước ngoài (1996)

đã tạo được khung pháp lý để thu hút các thành phần kinh tế đầu tư trồng RSX như

ưu đãi cho các vùng khó khăn, miễn thuế sử dụng đất, miễn giảm thuế đất,… Tuy nhiên, thực tế đã qua 10 năm mà hiệu quả thu được chưa là bao nhiêu do việc tổ chức thực hiện và một số quy định cụ thể chưa đủ sức hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư. Vốn

đầu tư là cực kỳ quan trọng, vốn từ quỹ đầu tư hỗ trợ quốc gia cũng vô cùng cần thiết nhưng không thể đủ để có thể đáp ứng nhu cầu của tất cả các đối tác, vả lại cũng không phải ai cũng có thể tiếp cập được với nguồn vốn này, đặc biệt là các hộ gia

đình. Vì vậy, việc thu hút các nguồn vốn khác của xã hội đầu tư vào trồng RSX là vô cùng cần thiết, đặc biệt là các nguồn vốn từ các doanh nghiệp, cá nhân.

Đối với cây ngắn ngày thường bỏ qua nhân tố thời gian và tính hiệu quả của trồng trọt dựa trên hiệu số giữa doanh thu và chi phí. Khi tổng thu lớn hơn tổng chi thì người sản xuất thu được lợi nhuận có giá trị dương và hoạt động sản xuất được

đánh giá là khả thi về mặt kinh tế. Đối với cây rừng, chu kỳ sản xuất dài, rủi ro lớn, nhu cầu vốn cao và tập trung trong 1-2 năm đầu, người trồng rừng thường có nhu cầu vay vốn để trồng rừng. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ đầu tư đủ sức thu hút các thành phần kinh tế khác nhau tham gia trồng RSX.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Chính sách tự chủ sản xuất kinh doanh và hưởng lợi từ sản phẩm rừng trồng sản xuất cần thực sự thông thoáng; khuyến khích phát triển kinh tế trang trại lâm nghiệp. Kinh nghiệm ở một số nơi đã phát triển rừng trồng sản xuất mạnh như Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái,… cho thấy các trang trại lâm nghiệp thực sự có vai trò không nhỏ cho sự phát triển trồng RSX.


Đánh giá thực trạng trồng rừng sản xuất tại huyện Lục Ngạn - Bắc Giang và đề xuất các giải pháp phát triển - 13

4.4.4.4. Các giải pháp về kinh tế - xã hội

- Phải thiết lập quy hoạch vùng trồng RSX gắn với mạng lưới chế biến và thị trường cả trên thực địa.

Xây dựng quy hoạch và kế hoạch trồng RSX, quy hoạch cả mạng lưới theo chuỗi hành trình của dòng nguyên liệu từ tạo vùng nguyên liệu đến chế biến và tiêu thụ một cách khép kín không chỉ trên giấy tờ, bản đồ mà phải được thực địa hoá trên cơ sở thống nhất liên ngành, thống nhất giữa Trung ương và địa phương tạo được một lâm phận RSX ổn định có đầy đủ căn cứ pháp lý.

Thực hiện khoán đất trồng rừng dài hạn cho hộ đối với chủ đất là lâm trường và hợp đồng với nhóm chủ hộ có đất theo cơ chế cùng đầu tư, cùng hưởng lợi với tỷ lệ

ăn chia có phần ưu tiên hơn cho người trồng rừng để thu hút người dân địa phương tham gia.

- Xây dựng các khu công nghiệp chế biến lâm sản tập trung, chủ đạo của các tỉnh kết hợp với phát triển các cơ sở chế biến quy mô vừa và nhỏ, phân tán ở các huyện, xã nhằm giải quyết thị trường tiêu thụ gỗ cho các hộ trồng RSX, tạo thêm công ăn việc làm và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

- Đầu tư các công nghệ mới, hiện đại, các dây chuyền sản xuất liên hoàn,… để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hiệu quả sử dụng nguyên liệu, mở rộng thị trường xuất khẩu đồ gỗ.

- Nhận thức và hiểu biết của người dân địa phương về sản xuất lâm nghiệp nói chung và trồng RSX thâm canh, tập trung nói riêng chưa cao, vì vậy cần có giải pháp

để nâng cao nhận thức và hiểu biết của người dân địa phương, đặc biệt là các dân tộc ít người.

4.4.4.5. Các giải pháp về thông tin, tuyên truyền và phổ cập

Đây là giải pháp cần được xem là trọng tâm, phải tổ chức thực hiện triệt để và có hiệu quả. Nội dung công tác thông tin, tuyên truyền cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau đây:

- Cần tuyên truyền những chủ trương chính sách mới của Nhà nước về trồng RSX, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân về giá trị nhiều mặt của rừng (giá trị kinh tế, sinh thái, du lịch, bảo tồn,...).

- Cần phải tuyên truyền, giới thiệu tác dụng của rừng trong việc cung cấp lâm


sản và LSNG cũng như chức năng bảo vệ môi trường sinh thái của rừng, công việc này đòi hỏi các cán bộ truyền thông phải có trình độ nhất định. Để thực hiện được cần phải có sự phối hợp của nhiều tổ chức, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Đồng thời người dân cũng cần hiểu có thể phất triển kinh tế hộ gia đình từ việc trồng RSX.

- Phổ biến chủ trương, đường lối phát triển lâm nghiệp hiện nay của Nhà nước, nhất là chủ trương đóng cửa rừng tự nhiên, giao đất giao rừng tới hộ gia đình, quyền lợi và nghĩa vụ của người trồng rừng và bảo vệ rừng,....

- Thông tin cho người dân địa phương biết về thực trạng trồng RSX của tỉnh Bắc Giang và huyện Lục Ngạn và các chương trình/dự án, quy hoạch vùng nguyên liệu trên địa bàn tỉnh, huyện, các giống cây trồng có năng suất và chất lượng cao,...

để mọi người có cách nhìn nhận đúng đắn về vấn đề này. Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác thông tin thị trường, sản phẩm, giá cả,… cho người sản xuất.

- Phổ cập kỹ thuật, tổ chức cho người dân địa phương tham quan, học tập các

điển hình trồng rừng, các mô hình trồng rừng sản xuất có hiệu quả kinh tế và bền vững, qua đó phát động phong trào trồng rừng trong nhân dân, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia góp vốn trồng rừng, bảo vệ và phát triển rừng.

Để công tác tuyên truyền và phổ cập đạt được kết quả cao cần phải áp dụng nhiều hình thức giới thiệu và phổ cập như loa đài, truyền thanh, tài liệu, tờ rơi, áp phích, biển hiệu,... ở mọi nơi, mọi chỗ như trụ sở làm việc của xã, trường học, nhà văn hoá,... Nội dung các chương trình tuyên truyền phải phong phú, đa dạng; cần lồng ghép và phối hợp nhiều chương trình với nhau, gắn kết các thông tin sản xuất nông, lâm nghiệp, đặc biệt là về các giống cây trồng và kỹ thuật mới, các hoạt động của các dự án bảo tồn, dự án lâm nghiệp xã hội,... cũng như các hoạt động văn hoá, xã hội của xã, thôn với việc tuyên truyền, khích lệ người dân tham gia trồng RSX. Bên cạnh đó, cần chú ý đào tạo đội ngũ cán bộ tuyên truyền, phổ cập viên cấp xã, thôn và tạo điều kiện cho họ làm việc; tăng cường sự phối hợp, chỉ đạo giữa các cấp chính quyền với các bộ phận làm công tác tuyên truyền, phổ cập. Trong giải pháp này cần đặc biệt ưu tiên cho các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa trong huyện - nơi có hệ thống cơ sở hạ tầng kém phát triển, nhận thức và mức sống của người dân còn nhiều hạn chế.


Chương 5: kết luận, tồn tại và kiến nghị

5.1. Kết luận:

- Với diện tích dành cho lâm nghiệp chiếm khoảng 57% tổng diện tích tự nhiên, trồng rừng nói chung và trồng rừng sản xuất nói riêng trên địa bàn huyện Lục Ngạn được chia thành 2 giai đoạn: Trước năm 1990, chủ yếu trồng rừng theo kế hoạch; trồng rừng sản xuất chỉ thực sự phát triển kể từ năm 1990 trở lại đây.

- Diện tích trồng rừng sản xuất tập trung chủ yếu được lâm trường Lục Ngạn và các hộ dân tham gia dự án KFW tổ chức thực hiện. Từ năm 2000 đến nay, tổng diện tích rừng trồng sản xuất tập trung của huyện là 1891,8 ha; trung bình mỗi năm trồng được > 300 ha.

- Rừng trồng sản xuất tại huyện có mục tiêu cơ bản là cung cấp gỗ trụ mỏ, ván bao bì, dăm, vật liệu xây dựng,… và lâm sản ngoài gỗ. Nguồn vốn đầu tư cho trồng rừng chủ yếu từ vay ưu đãi, ngoài ra còn có các nguồn khác như từ chương trình 327 giai đoạn đầu, các dự án nước ngoài như CARE, PAM 5322, KFW. Vùng nguyên liệu về cơ bản đã được hình thành.

- Cơ cấu cây trồng rừng sản xuất vẫn chủ yếu là Thông mã vĩ. Hiện nay chú ý

đến các loài mọc nhanh cung cấp gỗ mỏ và ván xẻ, bao bì, nguyên liệu giấy, dăm như Keo lai, Bạch đàn. Các loài cây gỗ lớn như Muồng đen, Lát hoa, Vối thuốc,… chỉ trồng phân tán trên diện tích nhỏ. Các giống mới cho năng suất cao, sản xuất bằng công nghệ tiên tiến (giâm hom, nuôi cấy mô) cũng đã được đưa vào sử dụng. Đáng chú ý là phương thức trồng rừng hỗn loài giữa cây mọc nhanh và cây cho gỗ lớn đang

được áp dụng khá phổ biến.

- Có 4 mô hình rừng trồng sản xuất phổ biến và đang có xu hướng phát triển mạnh, đó là: + Mô hình Keo lai trồng thuần loài;

+ Mô hình Bạch đàn Urophylla thuần loài;

+ Mô hình Thông mã vĩ thuần loài;

+ Mô hình Thông mã vĩ hỗn giao với Keo lá tràm.

- Khả năng sinh trưởng của hai loài Keo lai và Bạch đàn Urophylla cũng tương đương so với một số vùng trong cả nước. Thông mã vĩ và Keo lá tràm có sức


sinh trưởng trung bình, trong mô hình trồng hỗn giao Thông mã vĩ phát triển kém do có sự chèn ép của Keo lá tràm.

- Xét về hiệu quả kinh tế, các mô hình đều có lãi. Mô hình rừng trồng Thông mã vĩ thuần loài cho lợi nhuận cuối chu kỳ cao nhất: 17 846 518đ/ha/chu kỳ, tỷ suất lợi nhuận lớn nhất (BCR= 3,6).

- Xét về hiệu quả xã hội (giới hạn trong việc tạo công ăn việc làm), các mô hình cần số công lao động từ 186,64 đến 265,1 công; trong đó mô hình Thông mã vĩ hỗn giao với Keo lá tràm sử dụng nhiều công lao động nhất là 265,1 công. Rừng trồng sản xuất phát triển tạo tiền đề cho phát triển ngành chế biến lâm sản, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.

- Xét về hiệu quả phòng hộ, các mô hình không có sự sai khác nhau rò rệt, tuy nhiên nếu xét cụ thể thì mô hình hỗn giao Thông mã vĩ - Keo lá tràm cho hiệu quả cao nhất.

- Chỉ số hiệu quả tổng hợp cao nhất là của mô hình rừng trồng Thông mã vĩ với Ect = 0,89; tiếp theo là Keo lai có Ect = 0,83; Thông mã vĩ hỗn giao với Keo lá tràm có Ect = 0.81 và cuối cùng là Bạch đàn Urophylla với Ect = 0,76.

- Trong những năm qua, hệ thống chính sách trong đó có chính sách về lâm nghiệp đã thực sự tạo động lực thúc đẩy rừng trồng sản xuất phát triển cả về số lượng và chất lượng. Các chính sách có liên quan đến phá triển rừng trồng sản xuất tại huyện Lục Ngạn có thể chia làm 5 nhóm: Các chính sách về quản lý; các chính sách về đất đai; các chính sách về đầu tư, tín dụng, thuế sử dụng đất; các chính sách có liên quan như đổi mới cơ chế quản lý Lâm trường quốc doanh, quyền lợi và nghĩa vụ của đối tượng được giao, cho thuê đất lâm nghiệp,.. Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều vấn đề

đặt ra cần giải quyết như chính sách về đất đai vẫn còn nhiều khe hở, việc triển khai quy hoạch, kế hoạch còn chậm và chồng chéo; các chính sách về đầu tư, tín dụng đã có hướng mở song mới chỉ là đối với những doanh nghiệp quốc doanh nên việc thu hút đầu tư cho rừng trồng sản xuất còn hạn hẹp.

- Thị trường lâm sản rừng trồng sản xuất nói chung chưa phát triển, số lượng và chủng loại còn ít, đơn điệu và mới chỉ tập trung vào những thị trường đã được hình thành từ lâu như gỗ trụ mỏ, ván bao bì,… còn thị trường lâm sản ngoài gỗ và thị


trường cung cấp nguyên liệu giấy, ván ghép thanh, dăm, … mới đang dần được hình thành.

- Để phát triển rừng trồng sản xuất trên địa bàn, trong thời gian tới cần áp dụng các nhóm giải pháp:

* Về khoa học kỹ thuật: Quy hoạch vùng trồng không nhất thiết phải trồng rừng sản xuất bằng mọi giá mà phải đảm bảo tính hiệu quả và bền vững, không trồng trên những diện tích đất quá xấu, hiệu quả kinh tế thấp. Cơ cấu loài cây trồng phải dựa trên điều kiện tự nhiên và chiến lược sản phẩm. Mặt khác, cũng cần có những nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn về phương án sản phẩm.

* Về cơ chế chính sách: Tập trung hơn nữa vào chính sách đất đai, chính sách

đầu tư, tín dụng và chính sách về thị trường tiêu thụ lâm sản.

* Về tuyên truyền, phổ cập: Phối hợp với các ban ngành cùng thực hiện tuyên truyền, khích lệ, nâng cao nhận thức của người dân địa phương về rừng trồng nói chung và rừng trồng sản xuất nói riêng; cần đa đạng hơn nữa các nội dung tuyên truyền về thông tin nông – lâm nghiệp.

5.2. Tồn tại:

- Chưa đánh giá được nhiều mô hình rừng trồng sản xuất, mới chỉ dừng lại ở 4 mô hình.

- Các mô hình rừng trồng sản xuất được đánh giá có tuổi không đồng nhất.

- Đánh giá hiệu quả kinh tế các mô hình rừng trồng sản xuất mới chỉ dựa trên năng suất dự đoán do hầu hết các mô hình còn đang ở tuổi nhỏ.

5.3. Kiến nghị:

- Tiếp tục triển khai nhân rộng các mô hình rừng trồng sản xuất đã được đánh giá tại huyện Lục Ngạn.

- Nên thử nghiệm kéo dài thời gian nuôi dưỡng đối với các mô hình để có thể

đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao hiệu quả rừng trồng sản xuất.

- Tiếp tục đánh giá các mô hình rừng trồng sản xuất khác để có những nhận xét cụ thể và chính xác hơn.

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 30/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí