quá tiêu chuẩn cho phép. Với độ nhiễm mặn này, không thể tháo nước để bơm tưới cho cây trồng vì nếu thực hiện chỉ trong vòng một ngày, lúa và các loại cây trồng khác sẽ bị chết vì nhiễm mặn.Tại một số địa phương, do nông dân sốt ruột vì lúa và các các loại cây trồng khác bị khô hạn nhiều tháng nay nên đã tự ý lấy nước nhiễm mặn dưới cống và tại các dòng kênh để bơm tưới làm cho cây trồng bị chết [10]. (Chi cục Thủy lợi Nghệ An, 7/2010)
Nuôi trồng thủy sản: Với địa hình đặc thù, xã Hưng Hòa là địa phương duy nhất của TP Vinh có diện tích nuôi tôm lớn với trên 200 ha. Thu nhập từ NTTS đóng góp không nhỏ vào sự nâng cao đời sống cho bà con ở Hưng Hòa, vì vậy nhiều gia đình đã mạnh dạn vay vốn để đầu tư vào NTTS mà chủ yếu là nuôi tôm. Thế nhưng trong nhiều năm gây đây, trước biến đổi bất thường của thời tiết, các hiện tượng thời tiết cực đoan diễn ra ngày càng nhiều đã làm không ít gia đình phải lao đao và nghề nuôi tôm trở thành nghề mạo hiểm. Thiệt hại lớn nhất cho NTTS là mưa, bão. Tại Hưng Hòa sau khi cơn bão số 3 năm 2011 đổ bộ vào Nghệ an ngoài gần 20 hộ nuôi tôm ngoài đê bị mất trắng thì hàng trăm hộ trong đê cũng được phen hú vía bởi thiên tai.
Những năm trước tôi nuôi tôm theo hướng quảng canh. Tuy mỗi năm chỉ thả 1 vụ nhưng cũng đem lại thu nhập cho gia đình vài chục triệu đồng. Chính vì vậy mà vụ nuôi năm nay, tôi quyết định đầu tư gần 50 triệu đồng để mua dàn quạt nước, phao, giống… với suy nghĩ sẽ nhanh chóng thu hồi vốn và đem về lợi nhuận nhiều hơn. Thế nhưng, khi tôm chuẩn bị đến kỳ thu hoạch, đang tìm mối cho đầu ra thì nghe bão vào, đã gây thiệt hại lớn cho gia đình tôi.
(Ông Vò Quý Hồng, xóm Phong Hảo, Hưng Hòa, TP Vinh, Nghệ An)
Theo nhiều người dân nơi đây cho biết, hơn 50 năm nay mới có một lần nước sông Lam lên nhanh đến như vậy. Thường như các năm trước thì cứ đến tháng 8 mới xảy ra bão lụt, thế nhưng năm nay, bão đến sớm vào giữa tháng 7 mà nước lại lên quá nhanh khiến cho các hộ dân trở tay không kịp. Ngoài 14ha tôm phía ngoài
đê chịu mất trắng thì hàng trăm hộ nuôi tôm của Hưng Hòa cho biết: Chỉ cần hôm đó trời tiếp tục mưa khoảng nửa ngày nữa thì toàn bộ diện tích nuôi tôm trên 200ha của xã sẽ bị xóa sổ. Điều đáng nói là, những vụ trước, do nguồn lợi đem lại từ nuôi tôm tương đối khá nên năm nay hầu hết các hộ đã vay mượn ngân hàng để đầu tư vào các đầm tôm. Chỉ tính riêng tiền đầu tư của gần 20 hộ ngoài đê thiệt hại đã lên đến trên 700 triệu đồng, chưa kể hàng trăm triệu đồng tiền lãi khi tôm đến kỳ thu hoạch. Vì thế, sau bão, đời sống của các hộ này gặp rất nhiều khó khăn.
Nghề trồng cói – làm chiếu: Nghề dệt chiếu ở xã Hưng Hoà đã có truyền thống từ lâu đời, hầu hết người dân trong xã đều biết dệt chiếu từ thuở lên chín, lên mười. Có nhiều gia đình bốn, năm đời gắn bó với nghề dệt chiếu. Những năm trước đây khi chưa phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản thì nghề dệt chiếu cói được coi là thế mạnh kinh tế của bà con nông dân nơi đây, chiếu Hưng Hòa còn được xuất khẩu sang Lào, Cam Pu Chia. Nhưng đó đã là chuyện của quá khứ, giờ những cánh đồng cói đang dần bị thu hẹp, cộng với sự chiếm lĩnh thị trường của chiếu trúc, chiếu nhựa... khiến nhiều nhà treo khung dệt. Nghề chiếu cói ở Hưng Hoà đang dần mai một.
Theo ông Lê Văn Hùng- Phó chủ nhiệm HTX Hưng Hoà 2 cho biết: Hiện toàn xã có 8/9 xóm làm nghề chiếu với gần 1.000 lao động, chủ yếu từ 50 tuổi trở lên, tổng doanh thu hàng năm khoảng 6 tỷ đồng. Trong đó có 2 xóm Phong Hảo và Phong Thuận đã được tỉnh công nhận là làng nghề vào năm 2005. Thời thịnh vượng, những năm 1998- 1999, Hưng Hoà có đến hơn 200 hộ làm nghề với 180 ha chuyên trồng cói nguyên liệu. Nhưng do tình trạng xâm nhập mặn, thêm vào đó từ năm 2004 đến nay, sau khi có dự án phát triển thuỷ sản, diện tích cói co dần lại còn 65ha (nhưng thực tế chỉ có 55 ha cho thu nhập, còn 10ha đất đai cằn cỗi, cói không phát triển), với 60 hộ bám nghề. Số diện tích còn lại, do điều tiết nước mặn để nuôi tôm, cây cói bị nhiễm mặn nên không đạt được năng suất như trước kia. Nghề chiếu cói đang ngày càng gặp khó, do thiếu nguyên liệu, đầu ra bị thu hẹp, sản phẩm khó cạnh tranh với các loại chiếu khác và thu nhập từ nghề thấp...
Trước đây, mới đến đầu xóm đã thấy cói phơi đầy đường, đồng cói lúc nào cũng xanh ngút ngàn, nay cói hiếm, chúng tôi phải mua nguyên liệu của Xuân Giang- Nghi Xuân (Hà Tĩnh). Trong xóm giờ chỉ còn chục nhà bám nghề do không có đầu ra, thu nhập lại quá thấp. Và nghề này hiện chỉ còn phù hợp với người già, không thể canh đầm tôm hay ra đồng làm ruộng. Như hai ông bà nhà tôi, làm liên tục trong 2 ngày cũng chỉ được 1 chiếc chiếu đậu đặt theo yêu cầu loại 1,6m, bán giá 220.000 đồng/chiếc, trừ chi phí hết 140.000 đồng tiền cói (khoảng 7kg cói), 24.000 đồng tiền đay (3 lạng đay); tính ra tiền công lao động của một người/ngày chỉ được 14.000 đồng. Nếu làm chiếu thường, tiền công thấp hơn, khoảng 8.000- 10.000 đồng người/ngày. Chiếu được đánh giá chất lượng thành 3 loại: chiếu xô (hay còn gọi là chiếu hàng), chiếu đậu thường và chiếu đậu đặt. Giá cả phụ thuộc vào kích cỡ và chất lượng chiếu, một chiếc chiếu xô rộng 1,6m có giá 80.000-100.000 đồng, chiếu đậu thường 140.000- 160.000 đồng... trừ tiền đay, phẩm màu cũng không còn lãi là bao.
(Ông Trần Công Hợi, xóm Thuận 1, Hưng Hòa, TP Vinh, Nghệ An)
Ngoài ra, BĐKH nói chung và các hiện tượng thời tiết cực đoan nói riêng còn ảnh hưởng đến chăn nuôi, khai thác thủy sản tự nhiện,…Mức độ tác động của BĐKH đến sản xuất của nhân dân được thể hiện trong bảng 3.13 cho thấy: Đa số nhân dân đánh giá BĐKH có tác động nhiều đến sản xuất (32,2%) và 38,8% cho rằng BĐKH tác động rất nhiều đến sản xuất, trong khi đó có đến 17,2% đánh giá BĐKH có tác động vừa phải và 6,4% cho rằng BĐKH ít tác động đến tình hình sản xuất của dân cư địa phương.
Bảng 3.12. Mức độ tác động của BĐKH đến sản xuất
Mức độ | Số lượng người có ý kiến | Tỷ lệ (%) | |
Sản xuất | Chịu tác động rất nhiều | 35 | 38,8 |
Chịu tác động nhiều | 29 | 32,2 | |
Chịu tác động vừa phải | 16 | 17,2 | |
Chịu tác động ít | 6 | 6,4 | |
Không có ý kiến | 6 | 5,4 | |
Tổng cộng | 90 | 100,0 |
Có thể bạn quan tâm!
- Bản Đồ Xã Hưng Hòa, Tp Vinh, Nghệ An
- Xếp Hạng Các Nguồn Thu Nhập Chính Tại Xã Hưng Hòa
- Mức Độ Tác Động Của Bđkh Đến Cuộc Sống Gia Đình
- Các Biện Pháp Ứng Phó Với Bđkh Của Chính Quyền Các Cấp
- Nhận Thức Về Biến Đổi Khí Hậu Của Người Dân Hưng Hòa
- Nguyễn Giang Biên Dịch, 2008, Người Dân Bản Địa Vơ ́ I Biến Đổi Khi ́ Hâụ
Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.
Nguồn: Số liệu điều tra, năm 2012
3.4.4. Tác động của BĐKH đến thu nhập
BĐKH làm thay đổi cơ cấu thu nhập của hộ, tuy nhiên nguồn thu nhập chủ yếu của hộ vẫn là các nghề phụ thuộc nhiều vào tự nhiên nên chịu sự ảnh hưởng của BĐKH lại càng nhiều. Bên cạnh việc gây thiệt hại về nhà cửa và tài sả,ncác hiện tượng
thời tiết cưc
đoan, đăc
biêṭ là bão, mưa to và han
hán đã gây xáo trôn
cuôc
sống và do
đó làm ảnh hưởng đến thu nhâp
của các hộ gia đình taị đia
phươn.gKết quả phỏng vấn
cho thấy, sau mỗi đơt
mưa baõ , ngoài các thiệt hại về nhà cửa và tài sản, hầu hết các hô
gia đình phải tâp
trung vào viêc
khắc phuc
hâu
quả , ổn định cuộc sống . Điều này
đương nhiên ảnh hưởng đến các hoaṭ đôṇ g tao
thu nhâp
trong gia đình như sản xuất
muối, sản xuất nông nghiệp, đánh bắt, nuôi trông và kinh doanh thủy haỉ san̉ , kể cả viêc
đi làm thuê vì mưa lũ thì làm gì có việc gì mà ai thuê đi là.m
Người dân ở chỗ chúng tôi thu nhập chủ yếu vần là làm nông và nuôi tôm mà
những nghề này , thời tiết quan troṇ g lắm . Nắng quá cũng chết, mà mưa bão cũng chết. Thời tiết biến đổi thất thường là cả nhà đói như chơi. Trước đây, còn có nghề làm chiếu, chăn nuôi nó đỡ cho phần nào giờ làm chiếu chỉ còn vài hộ, chăn nuôi thì chủ yếu để ăn trong nhà nên mỗi khi như vậy khó khăn lắm.
( Bà Hà Thị Mai, xóm Hòa Lam, xã Hưng Hòa, TP Vinh, Nghệ An)
Bảng 3.13. Cơ cấu thu nhập của hộ qua các giai đoạn 1990 – 2012
ĐVT: VNĐ
Trước 1990 | 1990 - 2001 | 2002 -2012 | ||||
Cơ cấu (%) | Cơ cấu (%) | Cơ cấu (%) | ||||
Sản xuất nông nghiệp | 300.000 | 26,8 | 674.000 | 35,6 | 956.000 | 31,9 |
Trồng cói – làm chiếu | 374.000 | 33,4 | 385.000 | 20,4 | 156.000 | 5,2 |
Đi làm thuê | 65.000 | 5,8 | 180.000 | 9,6 | 464.000 | 15,5 |
Chăn nuôi | 295.000 | 26,3 | 276.000 | 14,6 | 205.000 | 6,8 |
NTTS | 0 | 0 | 205.000 | 10,9 | 921.000 | 30,8 |
Khai thác thủy sản | 86.000 | 7,7 | 90.000 | 4,8 | 195.000 | 6,5 |
Thu khác | 0 | 0 | 75.000 | 4,1 | 105.000 | 3,3 |
Tổng thu nhập | 1.120.000 | 100 | 1.885.000 | 100 | 3.002.000 | 100 |
Nguồn: Số liệu điều tra, năm 2012
Mức độ tác động của BĐKH đến thu nhập của nhân dân được thể hiện trong bảng 3.15 cho thấy: Đa số nhân dân đánh giá BĐKH có tác động nhiều đến thu nhập (44,3%) và 28,8% cho rằng BĐKH chỉ tác động vừa phải đến thu nhập, trong khi đó chỉ có 7,5% đánh giá BĐKH có tác động rất nhiều và 13,0% cho rằng BĐKH tác động ít đến thu nhập của dân cư địa phương.
Bảng 3.14. Mức độ tác động của BĐKH đến thu nhập
Mức độ | Số lượng người có ý kiến | Tỷ lệ (%) | |
Thu nhập | Chịu tác động rất nhiều | 7 | 7,5 |
Chịu tác động nhiều | 40 | 44,3 | |
Chịu tác động vừa phải | 26 | 28,8 | |
Chịu tác động ít | 11 | 13,0 | |
Không có ý kiến | 6 | 6,4 | |
Tổng cộng | 90 | 100,0 |
Nguồn: Số liệu điều tra, năm 2012
3.4.5. Tác động của BĐKH nhìn từ góc độ giới
Cũng như nhiều tỉnh thành khác ở Việt Nam, những đóng góp tiềm tàng của phụ nữ trong việc lập kế hoạch và ứng phó với tác động của BĐKH chưa được quan tâm thỏa đáng tại Nghệ An. Sự vắng mặt của phụ nữ trong các cơ cấu ra quyết định chính thức (các cấp tỉnh, huyện hoặc xã) đồng nghĩa với mối quan tâm của phụ nữ chưa được xem xét một cách đầy đủ trong quản lý rủi ro thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan nói riêng và ứng phó với BĐKH nói chung.
Ngoài ra, ở cấp xã và TP, các mục tiêu và những hoạt động cụ thể liên quan đến vấn đề giới chưa được lồng ghép trong các chính sách. Cho đến nay, những khác biệt về giới và nhu cầu riêng của nam và nữ chưa được quan tâm trong quá trình lập kế hoạch, ứng phó và cứu trợ của chính quyền địa phương.
BĐKH đã gây ra tác động tiêu cực đến sinh kế của cộng đồng địa phương, trong đó có sinh kế của phụ nữ. Những biến đổi về thời tiết và khí hậu như hạn hán và lũ lụt, đã gây những tác động bất lợi, giảm năng suất và sản lượng cói nguyên
liệu, khiến thu nhập của các hộ làm chiếu bị giảm sút. Thu nhập giảm, phụ nữ phải làm việc vất vả hơn để kiếm tiền trong khi họ vẫn phải chăm sóc con cái và gia đình, còn nam giới có thể tìm kiếm các công việc khác (ví dụ như làm thuê) để tăng thu nhập. Về khả năng thích ứng, nhìn chung cơ hội tìm kiếm các công việc phi nông nghiệp của nam giới lớn hơn phụ nữ và nam giới cũng có khả năng đi làm thuê theo mùa vụ ở các nơi khác nhiều hơn phụ nữ.
Bằng chứng cho thấy có sự khác biệt về vai trò giới trong các giai đoạn khác nhau trong đối phó với thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan. Thực tế cho thấy nam giới đóng vai trò chủ đạo trong quản lý rủi ro thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan. Những nỗ lực này của nam giới được đánh giá và thừa nhận trong khi các hoạt động khác do phụ nữ thực hiện lại ít được công nhận.
Trước kia, trong và sau các cơn bão, nam giới thường chịu trách nhiệm sửa chữa, tu bổ nhà cửa và các tài sản khác của gia đình trong khi các công việc quan trọng khác do phụ nữ đảm nhiệm như chăm sóc các thành viên trong gia đình, chuẩn bị lương thực, thực phẩm và các vật thiết yếu khác trước và sau bão, quét dọn và phụ giúp chồng trong các công việc sau bão. Tuy nhiên, các vai trò truyền thống này đã thay đổi khi nam giới đi làm ăn xa nhà. Người phụ nữ ở lại bị ảnh hưởng rò rệt bởi BĐKH do họ phải đảm nhiệm thêm cả vai trò của nam giới.
Báo cáo của Liên Hiệp Quốc và Oxfam (2009) cho thấy BĐKH có thể gây ra sự bất bình đẳng giới do phát sinh thêm công việc cho người phụ nữ và thúc đẩy khả năng dễ bị tổn thương vì họ phải làm nhiều công việc đồng áng hơn do nam giới vắng nhà và gia tăng các công việc phi nông nghiệp tại địa phương [48].
Tại xã Hưng Hòa, do thu nhập từ sản xuất giảm và khí hậu thất thường, một bộ phận lớn người dân phải đi làm thuê tại thành phố Vinh và các tỉnh khác. Đi làm thuê là một cách để người địa phương đối phó với BĐKH. Trong hoàn cảnh này, ngoài việc trở thành lao động chính trong sản xuất, phụ nữ còn là chủ nhân thực thụ trong gia đình với vai trò của nam giới, đặc biệt khi thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra. Ngoài các công việc gia đình và tái sản xuất, phụ nữ còn phải
làm nhiều công việc hơn trong gia đình, kể cả trong phòng tránh thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan.
Các hộ gia đình nghèo và phụ nữ làm chủ hộ có ít khả năng đối phó với BĐKH hơn những người khác. Kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu cho thấy những hộ gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đặc biệt những hộ do phụ nữ làm chủ hộ, có khả năng đối phó với biến đổi khí hậu kém hơn do thiếu nguồn nhân lực (phần lớn là các hộ là người già, hộ có nhiều trẻ em, có người đau ốm, v.v…). Do đó, các hộ này bị thiệt hại nhiều hơn do thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan. Ngoài ra, khả năng phục hồi sau thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan của các hộ này cũng rất chậm và thụ động, phần lớn dựa vào sự hỗ trợ của chính quyền và cộng đồng địa phương.
“Nhà tôi không có đàn ông nên mỗi khi mùa mưa bão về tôi chỉ làm được một số công việc đơn giản để phòng chống nhưng những việc đó gần như không có tác dụng gì so với bão, lũ nên gia đình tôi bị thiệt hại rất nhiều”
(chị Hoa, xóm Thuận 2, Hưng Hòa, TP Vinh, Nghệ An)
BĐKH ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của phụ nữ, người già và trẻ em, đặc biệt trong hoàn cảnh phụ nữ là những người lao động chính. Tác động này là rất rò ràng và nó đã làm giảm năng suất lao động của phụ nữ và người già, đặc biệt trong những ngày nắng nóng kéo dài.
Thiếu nước ngọt cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của phụ nữ. Do phải sử dụng nước lợ để tắm giặt nên bệnh phụ khoa tăng lên. Tuy nhiên, do thiếu thông tin và do hoàn cảnh kinh tế eo hẹp, phần lớn phụ nữ không đến khám tại các trung tâm y tế. Ngoài ra, ô nhiễm môi trường cùng với các véc tơ truyền bệnh tăng lên sau các trận lũ lụt cũng gây tác động xấu đến sức khỏe của người già, phụ nữ và trẻ em.
Với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ, vai trò của phụ nữ xã Hưng Hòa đã được cải thiện, đặc biệt trong các hoạt động liên
quan đến BĐKH. Có thể thấy rằng, hiện nay vai trò của phụ nữ xã Hưng Hòa đã được cải thiện đáng kể. Từ vai trò thụ động trong gia đình, nay phụ nữ đã đảm đương các hoạt động sản xuất và tạo thu nhập cho gia đình.
3.5. Năng lực và ứng phó với biến đổi khí hậu của địa phương
3.5.1. Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của tỉnh Nghệ An
Là một tỉnh ven biển của Bắc Trung bộ của Việt Nam nơi lụt bão thường xuyên xảy ra, Nghệ An có nhiều kinh nghiệm đối phó với các hiện tượng thời tiết cực đoan. Ban chỉ huy phòng chống lụt bão được thành lập ở các cấp tỉnh, huyện và xã với nhiệm vụ quản lý và giám sát việc thực hiện chiến lược quốc gia về phòng tránh thiên tai ở cộng đồng.
Cuối tháng 9 năm 2010, theo Chương trình Mục tiêu Quốc gia về BĐKH, giống như nhiều địa phương khác trong cả nước, Nghệ An đã bắt đầu triển khai xây dựng Kế hoạch Hành động ứng phó với BĐKH của tỉnh và thành lập Ban chỉ đạo ứng phó với BĐKH. Việc xây dựng kế hoạch như vậy là chậm so với yêu cầu của Chương trình Mục tiêu Quốc gia về BĐKH, theo đó các ban, ngành và các tỉnh phải xây dựng xong Kế hoạch ứng phó với BĐKH của mình vào cuối năm 2010. Điều này phản ánh rằng với một số tỉnh thành, ngay như tỉnh Nghệ An là địa phương dễ bị ảnh hưởng bởi BĐKH, thì việc thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia về BĐKH cũng gặp khó khăn [32].
Mục tiêu chung của kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của Nghệ An là huy động cao nhất các nguồn lực để thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan nhằm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản, hạn chế các thiệt hại về tài nguyên thiên nhiên, môi trường, các công trình hạ tầng, các di sản văn hóa, góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng và sự phát triển bền vững của tỉnh theo phương châm “ chủ động phòng, tránh, thích nghi để phát triển” với các nội dung và mục tiêu cụ thể gồm:
- Quy hoạch khu dân cư, xây dựng công trình phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, các hiện tượng thời tiết cực đoan, công trình hạ tầng giao thông, bảo đảm chống ngập và tiêu thoát lũ.