2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
- Giúp cho các doanh nghiệp nhận biết một cách toàn diện hơn về các loại hình DVPTKD.
- Đánh giá tổng quát về hiệu quả sử dụng DVPTKD hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Đề ra một số giải pháp giúp các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng các loại hình DVPTKD một cách hiệu quả hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về thực trạng sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh tại các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và tập trung vào đánh giá hiệu quả sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra khảo sát thực tế. Dựa trên kết quả điều tra, phân tích và tổng hợp các dữ liệu từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá.
5. Kết cấu của khóa luận
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá hiệu quả sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam - 1
- Cung Cấp Dịch Vụ Hỗ Trợ Cần Thiết Cho Các Doanh Nghiệp
- Hiệu Quả Sử Dụng Dịch Vụ Phát Triển Kinh Doanh
- Cung Của Thị Trường Dịch Vụ Phát Triển Kinh Doanh
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục, khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đánh giá hiệu quả sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh
Chương 2: Đánh giá hiệu quả sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh
Em xin được gửi lời cảm ơn tới các doanh nghiệp đã cung cấp thông tin giúp em có được kết quả điều tra thực tế về tình hình sử dụng DVPTKD của các doanh nghiệp và đặc biệt gửi lời cám ơn đến cô giáo Th.S Bùi Liên Hà đã giúp đỡ em hoàn thành bài khóa luận này.
Sinh viên
Phạm Thị Thanh Tâm
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ PHÁT TRIỂN KINH DOANH
1. 1. Khái niệm dịch vụ phát triển kinh doanh
1.1.1. Khái niệm dịch vụ
Cho đến nay, định nghĩa về dịch vụ vẫn còn chưa được thống nhất trên thế giới. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì dịch vụ là một trong ba ngành kinh tế chủ đạo: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Còn theo nghĩa hẹp, gắn với quá trình mua bán hàng hóa thì dịch vụ được hiểu là phần mềm của sản phẩm, hỗ trợ cho khách hàng trước, trong và sau khi bán hàng. Tuy nhiên cách hiểu như vậy về dịch vụ vẫn còn chưa đầy đủ vì các loại hình dịch vụ rất đa dạng, không nhất thiết là sẽ phải gắn với quá trình mua bán hàng hóa. Sau đây là một số định nghĩa khác nhau về dịch vụ của một vài tác giả:
Theo Philip Kotler: “Dịch vụ là mọi hành động hay lợi ích mà một bên có thể cung cấp cho bên kia và chủ yếu là vô hình và không dẫn đến quyền sở hữu một cái gì đó. Việc thực hiện dịch vụ có thể có và cũng có thể không liên quan đến một sản phẩm vật chất” [7, trang 552].
Hoặc cũng có thể định nghĩa: “Dịch vụ là một dạng hoạt động (giao dịch và phục vụ) nhằm thỏa mãn trực tiếp những nhu cầu của từng cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng dân cư” [5].
C. Mác đưa ra định nghĩa: “Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông thông suốt, trôi chảy, liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao đó của con người thì dịch vụ ngày càng phát triển” [3].
Như vậy, mỗi tác giả lại đưa ra một định nghĩa khác nhau cho dịch vụ theo các tiêu chí và hướng đến những mục đích khác nhau. Nhưng dù với khái
niệm nào thì dịch vụ vẫn mang một số đặc tính cơ bản mà bất cứ một dịch vụ nào cũng đều phải có đó là:
- Tính vô hình: dịch vụ không phải là một vật thể có thể cầm lấy hay mang đi được. Dịch vụ được tạo ra có thể bằng sự kết hợp với các vật thể hữu hình như các loại máy móc, trang thiết bị. Tuy nhiên, các vật thể hữu hình này cũng chỉ là những phương tiện để tạo ra dịch vụ. Người ta chỉ thấy được kết quả do dịch vụ mang lại và đánh giá chất lượng dịch vụ thông qua sự thỏa mãn hay không sau khi sử dụng nhưng lại không thể biết dịch vụ đó mang hình dáng như thế nào. Lấy ví dụ như dịch vụ vận tải, người ta chỉ có thể thấy được kết quả do dịch vụ mang lại đó là hàng hóa được vận chuyển đến các địa điểm khác nhau nhưng không thể thấy được hình dáng, kết cấu của dịch vụ vận tải ra sao.
- Tính không thể tách rời: dịch vụ được sản xuất ra và tiêu dùng cùng một lúc, không thể dự trữ hay vận chuyển được và nó cũng không thể tách rời với người tạo ra và người sử dụng dịch vụ. Quá trình sản xuất ra dịch vụ đồng thời với quá trình tiêu dùng dịch vụ, người ta không thể dự trữ dịch vụ cho nhiều lần sử dụng như các loại hàng hóa hữu hình khác. Ta chỉ có thể dự trữ các yếu tố sản xuất ra dịch vụ như các máy móc, trang thiết bị hay nhân lực để khi cần có thể tạo ra dịch vụ nhanh chóng, thuận tiện và dễ dàng hơn.
- Tính không xác định: dịch vụ được tạo ra không có quy cách, phẩm chất cụ thể. Chất lượng dịch vụ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như nhà cung cấp, người tiêu dùng, thời gian, địa điểm cung cấp dịch vụ, có thể gồm cả trạng thái tâm lý, cảm xúc của người cung cấp và người sử dụng dịch vụ. Bởi dịch vụ là vô hình và chất lượng của nó còn tùy thuộc vào trình độ, kỹ năng của người cung cấp và cảm nhận, đánh giá của người tiêu dùng dịch vụ sau khi đã sử dụng dịch vụ cho nên rất khó để có thể xác định chất lượng dịch vụ có tốt hay không. Cùng một dịch vụ, cùng người cung cấp nhưng những người tiêu dùng khác nhau sẽ có đánh giá khác nhau về dịch vụ đó. Thậm chí
một dịch vụ do cùng nhà cung cấp và cùng người tiêu dùng đó nhưng tại những thời điểm khác nhau có thể mang lại hiệu quả khác nhau. Do vậy việc đánh giá một dịch vụ chủ yếu dựa trên đánh giá chủ quan của người sử dụng dịch vụ.
1.1.2. Khái niệm dịch vụ phát triển kinh doanh
DVPTKD ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường nhưng nó mới chỉ thực sự xâm nhập vào Việt Nam và được các doanh nghiệp Việt Nam biết đến kể từ những năm cuối của thế kỷ 20. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng sử dụng các dịch vụ này nhiều hơn khi nhu cầu về các dịch vụ này ngày một gia tăng. Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, việc sử dụng các loại hình DVPTKD cần phải được các doanh nghiệp xem xét và sử dụng một cách thường xuyên và hiệu quả để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Vậy DVPTKD là gì? Khái niệm về dịch vụ này đến nay vẫn còn chưa thực sự thống nhất và có rất nhiều quan điểm khác nhau về dịch vụ này, mỗi nước hoặc các tổ chức khác nhau đều có những định nghĩa riêng về DVPTKD dựa trên các tiêu chí khác nhau, các mục đích khác nhau và điều kiện kinh tế - xã hội khác biệt. Chúng ta cùng xem qua một số định nghĩa về DVPTKD:
Theo tổ chức lao động quốc tế ILO:“DVPTKD là những loại hình dịch vụ được cung cấp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa vượt qua các rào cản để gia tăng lợi nhuận bằng cách tăng năng suất và tiếp cận với những thị trường giá trị cao. Bằng cách này, các doanh nghiệp có thể tạo ra và duy trì những cơ hội việc làm với mức lương cao, giảm đói nghèo và góp phần phát triển kinh tế địa phương. Những loại hình dịch vụ này bao gồm: đào tạo, tư vấn, hỗ trợ về marketing, thông tin, phát triển và chuyển giao công nghệ, kết nối các đầu mối kinh doanh, và liên kết với giới tài chính và các dịch vụ tài chính” [19].
Theo khái niệm này thì các DVPTKD sẽ chỉ là các dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và vừa. Tuy nhiên vì đây là khái niệm do một tổ chức quốc tế chủ yếu mang tính chất hỗ trợ cho các quốc gia kém phát triển đưa ra nên khái niệm này gắn với các mục tiêu mang tính vĩ mô hơn như giảm đói nghèo, phát triển kinh tế khu vực chứ không gắn kết trực tiếp với doanh nghiệp sử dụng dịch vụ.
Cuốn Guiding Principles đưa ra định nghĩa: DVPTKD “bao gồm tập hợp nhiều dịch vụ kinh doanh cả các dịch vụ mang tính chiến lược và hoạt động”. DVPTKD được tạo ra nhằm mục đích phục vụ mỗi tổ chức kinh doanh riêng lẻ, trái với cộng đồng kinh doanh lớn hơn [12, trang 11].
Dịch vụ kinh doanh “hoạt động” là những dịch vụ cần thiết cho hoạt động hàng ngày, ví dụ như thông tin liên lạc, quản lý sổ sách và những số liệu ghi chép về thuế, và việc tuân thủ các quy định của Luật lao động và các quy định pháp lý liên quan khác. Dịch vụ kinh doanh “chiến lược” lại được các doanh nghiệp sử dụng để đưa ra các vấn đề mang tính trung và dài hạn nhằm cải thiện khả năng hoạt động của các doanh nghiệp, khả năng tham gia thị trường và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
DVPTKD còn được định nghĩa“là bất kỳ một dịch vụ phi tài chính nào được cung cấp cho các tổ chức kinh doanh một cách chính thức hoặc phi chính thức” [1, trang 92].
Các dịch vụ phi tài chính được hiểu là các dịch vụ không liên quan đến việc cung ứng tài chính cho doanh nghiệp như dịch vụ đào tạo, tư vấn và các dịch vụ khác nhằm giải quyết những khó khăn nội bộ của doanh nghiệp [2].
Còn dịch vụ tài chính là các dịch vụ kinh doanh nhưng được hiểu theo nghĩa rất hẹp là nhóm dịch vụ liên quan trực tiếp đến: huy động vốn, dàn xếp vốn và quản trị các nguồn vốn [17].
DVPTKD cũng có thể được định nghĩa đơn giản là “bất kỳ dịch vụ nào được các doanh nghiệp sử dụng nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng kinh doanh” [11].
Đây có lẽ là định nghĩa về DVPTKD một cách cơ bản nhất, dễ hiểu nhất và cũng bao quát nhất. DVPTKD đơn thuần là những dịch vụ giúp doanh nghiệp phát triển hoạt động kinh doanh, là những dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, giúp doanh nghiệp nâng cao hoạt động sản xuất, phát triển quy mô và gia tăng lợi nhuận.
Mặc dù khái niệm về DVPTKD có thể khác nhau nhưng tựu chung lại thì DVPTKD là các dịch vụ nhằm mục đích giúp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và mang lại kết quả cuối cùng là giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận, giảm chi phí, sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả. DVPTKD bao gồm một tập hợp các dịch vụ khác nhau, bao gồm: đào tạo, tư vấn, các dịch vụ quản lý, marketing, các dịch vụ thiết kế sản phẩm, bảo đảm chất lượng, sự phân bổ hậu cần, thông tin, Internet, công nghệ thông tin và máy tính, thúc đẩy liên kết kinh doanh, sở hữu trí tuệ, đưa tin và quảng cáo, phát triển thương hiệu,…
1.2. Phân loại dịch vụ phát triển kinh doanh
Việc phân loại DVPTKD có thể dựa trên rất nhiều cách khác nhau và theo các tiêu chí khác nhau, sau đây là một số cách phân loại thường gặp:
Theo hướng dẫn của Mạng lưới Hỗ trợ và Giáo dục Các Doanh nghiệp Nhỏ SEEP [18], các DVPTKD được chia làm 7 hạng mục:
- Tiếp cận thị trường gồm: marketing, các mối liên hệ marketing, hội chợ thương mại và triển lãm sản phẩm, phát triển các ví dụ cho người mua, thông tin thị trường, thầu phụ và thuê ngoài, các chuyến thăm và các cuộc họp với mục đích marketing, nghiên cứu thị trường, phát triển chợ, phòng trưng bày, đóng gói, quảng cáo.
- Cơ sở hạ tầng gồm: bảo quản và kho bãi, vận tải và giao nhận, các lò đào tạo kinh doanh, thông tin liên lạc, dịch vụ bưu điện, chuyển tiền, thông tin qua các ấn phẩm, đài, vô tuyến, truy cập internet, dịch vụ máy tính, dịch vụ thư ký.
- Chính sách/dịch vụ luật sư gồm: đào tạo về chính sách và dịch vụ luật sư, phân tích và thông tin về những khó khăn và cơ hội của chính sách, dịch vụ luật sư trực tiếp cho các doanh nghiệp nhỏ, tài trợ các cuộc hội nghị, nghiên cứu chính sách.
- Cung ứng đầu vào gồm: kết nối các doanh nghiệp nhỏ với các nhà cung ứng đầu vào, nâng cao năng lực của các nhà cung ứng để họ có thể cung cấp đầu vào thường xuyên và có chất lượng, hỗ trợ thành lập các nhóm mua hàng số lượng lớn, thông tin về các nguồn cung đầu vào.
- Đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật gồm: cố vấn, nghiên cứu khả thi và kế hoạch kinh doanh, các chuyến thăm trao đổi kinh nghiệm và công tác, cấp quyền kinh doanh, đào tạo quản lý, đào tạo kỹ thuật, các dịch vụ tư vấn, các dịch vụ pháp lý, tư vấn tài chính và thuế, kế toán và giữ sổ sách kế toán.
- Phát triển công nghệ và sản phẩm gồm: chuyển giao/thương mại hoá công nghệ, kết nối các doanh nghiệp nhỏ với các nhà cung cấp công nghệ, hỗ trợ mua công nghệ, các chương trình bảo đảm chất lượng, cho thuê và thuê thiết bị, dịch vụ thiết kế.
- Cơ cấu tài chính thay thế gồm: các công ty bao thanh toán cung cấp vốn lưu động cho các đơn đặt hàng đã được xác nhận, tài trợ vốn tự có, hỗ trợ tín dụng cho nhà cung ứng.
Theo chương trình phát triển các doanh nghiệp nhỏ của Tổ chức lao động quốc tế ILO, hệ thống DVPTKD được chia làm 7 nhóm:
- Dịch vụ tiếp cận thị trường: là những dịch vụ cung cấp cho doanh nghiệp những báo cáo thị trường về marketing và các mối liên hệ marketing, hội chợ thương mại, triển lãm sản phẩm, nghiên cứu thị trường, quảng cáo,…