PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài:
Ngân hàng thương mại cổ phần là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, nhiệm vụ thường xuyên và chủ yếu là huy động vốn, cho vay và cung cấp các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng. Đối với hoạt động Ngân hàng, vốn là yếu tố quyết định mọi hoạt động kinh doanh. Thực tế tại các NHTMCP hiện nay vốn tự có chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ, còn lại là vốn huy động, vốn đi vay và vốn khác. Trong đó, vốn huy động luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất và ổn định nhất. Do vậy có thể khẳng định vốn huy động hay công tác huy động vốn có vai trò to lớn quyết định đến khả năng hoạt động và phát triển của Ngân hàng. Tại Việt Nam, việc huy động vốn bằng cách khai thác lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trong công chúng, hộ gia đình, của các tổ chức kinh tế xã hội hay các tổ chức tín dụng khác của NHTM còn nhiều bất hợp lý. Điều này dẫn tới chi phí vốn cao, quy mô không ổn định, từ đó làm hạn chế khả năng sinh lời, buộc Ngân hàng phải đối mặt với các rủi ro… Do đó, việc tăng cường HĐV với chi phí hợp lý và sự ổn định cao là yêu cầu ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng.
Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã và đang khẳng định vị trí và vai trò của các NHTM, với những nghiệp vụ không ngừng được cải thiện và mở rộng cho phù hợp, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn và cung cấp các dịch vụ Ngân hàng cho nền kinh tế và dân cư. Việc làm này của các NHTM đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đẩy mạnh xuất khẩu, đầu tư sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hoá công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cũng như góp phần tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Để có thể thực hiện được tất cả các nhiệm vụ trên, Ngân hàng cần phải có nguồn vốn. Vốn huy động trở thành nguồn vốn chủ yếu cung cấp vốn cho toàn bộ nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà mở cửa, hội nhập là điều kiện tất yếu của bất kì quốc gia nào muốn phát triển. Sự hội nhập sẽ làm phân bổ nguồn vốn trong xã hội một cách hợp lý. Với sự xuất hiện của các tổ chức tài chính nước ngoài, các tổ chức tài chính mới trong nước, nguồn vốn chảy vào các NHTM sẽ theo đó mà giảm dần. Chính vì thế, muốn tồn tại và đứng vững trong môi trường mới,
các Ngân hàng luôn luôn cần có nguồn vốn dồi dào. Khi đó, huy động vốn trở thành một biện pháp hữu hiệu cho các NHTM thực hiện các chiến lược của mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn tại ngân hàng tmcp á châu – chi nhánh Huế - 2
- Kết Quả Kinh Doanh Của Chi Nhánh Giai Đoạn 2009 - 2011:
- Thành Tựu Đạt Được Và Những Hạn Chế Còn Tồn Tại Trong Công Tác
Xem toàn bộ 68 trang tài liệu này.
Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) _ Ngân hàng TMCP mạnh nhất hiện nay tại Việt Nam đã được các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế công nhận về sự thành công và phát triển bền vững. ACB tự hào là Ngân hàng luôn dẫn đầu về huy động vốn, tài sản và lợi nhuận trước thuế trong toàn hệ thống. Trong những năm qua, tình hình huy động vốn tại NHTMCP Á Châu – Chi nhánh Huế cũng đã đạt được một số kết quả đáng mừng song bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Trong định hướng phát triển, tăng cường huy động vốn vẫn là ưu tiên hàng đầu. Đó cũng là một hoạt động vô cùng cấp thiết, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu hoạt động kinh doanh cho Ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó cùng với những kiến thức đã được học ở trường, tôi quyết định chọn đề tài: “Đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Á Châu – Chi nhánh Huế” làm đề tài thực tập cuối khóa của mình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về: NHTM, vốn của NHTM, các chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả công tác HĐV và sự hài lòng của KH về dịch vụ HĐV của Ngân hàng,…
- Phân tích thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng Á Châu – CN Huế.
- Phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn tại Chi nhánh.
- Khảo sát sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ huy động vốn của Chi nhánh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng Á Châu – Chi nhánh Huế.
1.3. Phương pháp nghiên cứu:
1.3.1. Phương pháp thu thập số liệu
1.3.1.1. Số liệu thứ cấp:
+ Đọc, tổng hợp, phân tích thông tin từ giáo trình, sách báo nghiệp vụ, Internet, đề tài nghiên cứu, khóa luận và các tài liệu có liên quan để nắm vững lý thuyết về NHTM, nguồn vốn, công tác huy động vốn của NHTM, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn và sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ huy động vốn,…
+ Thu thập số liệu về tình hình huy động vốn tại NH Á Châu – CN Huế qua 3
năm 2009, 2010, 2011.
1.3.1.2. Số liệu sơ cấp:
+ Quan sát: Quan sát khách hàng đến giao dịch để ghi lại thái độ, hành vi và sự hài lòng của khách hàng về Ngân hàng.
+ Lập và gửi bảng hỏi: Bảng câu hỏi được thiết kế với các thang đo khoảng được đưa vào bảng Likert với mức độ từ hoàn toàn không đồng ý đến hoàn toàn đồng ý với các ý kiến đưa ra. Thang đo này dùng để đánh giá sự hài lòng và các đánh giá của khách hàng về: Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng; lãi suất; chất lượng giao dịch; hệ thống mạng lưới; nhân viên; công tác quảng cáo, khuyến mãi; …
Thiết kế mẫu:
+ Phương pháp xác định quy mô mẫu:
Số khách hàng đang gửi tiền tại Ngân hàng là 11.612 người. Bình quân mỗi ngày có khoảng 580 khách hàng (căn cứ vào số lượng chứng từ) đến thực hiện các giao dịch tại ba điểm giao dịch của Ngân hàng ACB tại Thành phố Huế, như vậy trong khoảng thời gian thực hiện cuộc điều tra từ 18/02/2012 đến ngày 27/2/2012 có khoảng 580 x 10 = 5.800 khách hàng đến giao dịch tại Ngân hàng, chiếm gần 50% tổng số khách hàng hiện tại.
Số mẫu tối thiểu được xác định bằng công thức:
z2. p. (1-p)
n =
D2
Trong đó:
- p = 0.5: tỷ lệ khách hàng đến NH giao dịch trong khoảng 10 ngày so với tổng thể.
- Chọn mức tin cậy 95% => z = 1.96.
- Sai số cho phép: D = +/- 10% vì trong số những khách hàng điều tra sẽ có những khách hàng lần đầu đến giao dịch, không thuộc tổng thể 11.612 khách hàng hiện có, số lượng khách hàng đến giao dịch có nhiều biến động.
1.962 x 0.5 x (1 – 0.5)
Ta có: n >=
n >= 96
0.12
Vậy số mẫu được chọn là 100.
+ Phương pháp chọn mẫu:
Hiện tại Ngân hàng ACB tại Thành phố Huế có 3 điểm huy động vốn:
- Điểm huy động vốn thứ nhất tại số 1 Trần Hưng Đạo: Có 7 giao dịch viên, trung bình mỗi ngày mỗi giao dịch viên làm việc với 45 khách hàng, vậy số khách hàng bình quân đến điểm giao dịch này mỗi ngày là: A = 45 x 7 = 315 khách hàng.
- Điểm huy động vốn thứ hai tại số 30 Hùng Vương: Có 2 giao dịch viên, trung bình mỗi ngày mỗi giao dịch viên làm việc với 50 khách hàng, vậy số khách hàng bình quân đến điểm giao dịch này mỗi ngày là: A = 50 x 2 = 100 khách hàng.
- Điểm huy động vốn thứ ba tại số 100 Hùng Vương: Có 3 giao dịch viên, trung bình mỗi ngày mỗi giao dịch viên làm việc với 55 khách hàng, vậy số khách hàng bình quân đến điểm giao dịch này mỗi ngày là: A = 55 x 3 = 165 khách hàng.
Vậy tổng cộng mỗi ngày có: A + B + C = 315 + 100 + 165 = 580 khách hàng.
Số phiếu điều tra tại điểm huy động vốn thứ nhất:
A 315
100 x = 100 x = 54 phiếu.
A + B + C 315 + 100 + 165
Số phiếu điều tra tại điểm huy động vốn thứ hai:
A 100
100 x = 100 x = 18 phiếu.
A + B + C 315 + 100 + 165
Số phiếu điều tra tại điểm huy động vốn thứ ba:
A 165
100 x = 100 x = 28 phiếu.
A + B + C 315 + 100 + 165
+ Phương pháp điều tra:
Tiến hành điều tra trực tiếp khách hàng đến giao dịch tại Ngân hàng ACB – Chi nhánh Huế. Việc điều tra trực tiếp, có hướng dẫn và giải thích sẽ phần nào giảm thiểu được sai sót trong điều tra do người được phỏng vấn không hiểu rõ nội dung câu hỏi, đồng thời đảm bảo thu thập đủ số lượng bảng hỏi được phát ra.
1.3.2. Phương pháp xử lý dữ liệu:
1.3.2.1. Phương pháp xử lý dữ liệu thứ cấp:
+ Phương pháp so sánh: Đối với dữ liệu thứ cấp thu thập tại NH ACB – CN Huế, tôi chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh số tuyệt đối và tương đối để đánh giá sự biến động về tình hình kinh doanh và HĐV tại NH qua các năm dựa trên các chỉ tiêu: VHĐ trên tổng nguồn vốn; tổng dư nợ trên VHĐ; lãi suất đầu vào bình quân; …
1.3.2.2. Phương pháp xử lý dữ liệu sơ cấp:
Đối với dữ liệu sơ cấp thu thập được từ phỏng vấn khách hàng, tôi chủ yếu sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để phân tích và xử lý dữ liệu bằng các phương pháp sau:
+ Phương pháp hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha: Trước khi phân tích, tôi tiến hành kiểm tra độ tin cậy của thang đo bằng phương pháp hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha.
+ Phương pháp phân tích nhân tố: nhằm phân tích các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến dịch vụ HĐV của NH như: Các hình thức HĐV của Ngân hàng; lãi suất; chất lượng giao dịch; hệ thống mạng lưới; nhân viên; công tác quảng cáo, khuyến mãi; …
+ Phương pháp phân tích hồi quy: nhằm tìm ra các nhân tố ảnh hưởng nhiều nhất đến dịch vụ huy động vốn của Ngân hàng.
Mô hình hồi quy dự kiến:
X = α + ß1X1 + ß2X2+ ß3X3 + ß4X4 + ß5X5 + ß6X6
Trong đó:
X: Sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ HĐV của NH ACB – CN Huế. X1: Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng.
X2: Lãi suất
X3: Chất lượng giao dịch X4: Hệ thống mạng lưới. X5: Nhân viên
X6: Công tác quảng cáo, khuyến mãi.
+ Phương pháp kiểm định giá trị trung bình của tổng thể One Sample T-Test: Giả thiết H0: giá trị trung bình của tổng thể bằng giá trị kiểm định.
Đối thiết H1: giá trị trung bình của tổng thể khác giá trị kiểm định.
H0:
H1:
0 .
1.
Nguyên tắc bác bỏ giả thiết:
Sig. < 0,05: bác bỏ giả thiết H0.
Sig. > 0,05: chưa có cơ sở bác bỏ giả thiết H0.
+ Phương pháp kiểm định Kruskal-Wallis:
Giả thiết H0: tất cả giá trị trung bình là bằng nhau
Đối thiết H1: tồn tại ít nhất 2 giá trị trung bình khác nhau. Nguyên tắc bác bỏ giả thiết:
Sig. < 0,05: bác bỏ giả thuyết H0.
Sig. > 0,05: chưa có cở sở bác bỏ giả thuyết H0.
1.4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
1.4.1. Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: Ngân hàng ACB – Chi nhánh Huế.
- Thời gian: Phân tích, đánh giá tình hình huy động vốn qua 3 năm 2009 - 2011.
1.4.2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Á Châu – Chi nhánh Huế.
1.5. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, đề tài được chia làm 4 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác huy động vốn của NHTM.
- Chương 2: Thực trạng công tác HĐV tại Ngân hàng TMCP Á Châu – CN Huế.
- Chương 3: Khảo sát sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Á Châu – Chi nhánh Huế.
- Chương 4: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Á Châu – Chi nhánh Huế.
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Lý luận chung về Ngân hàng thương mại:
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại:
NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
Ở Mỹ : NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Đạo luật Ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Ở Việt Nam, định nghĩa NHTM: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. (Theo Ths. Phan Thị Thu Hà – Ths. Nguyễn Thị Thu Thảo (2002), “Ngân hàng thương mại – Quản trị và nghiệp vụ”, NXB Thống kê, Hà Nội)
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.1.2. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường:
1.1.2.1. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế:
NHTM ra đời là tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá phát triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng, trong xã hội xuất hiện người thì có vốn nhàn rỗi, người thì cần vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này giải quyết bằng cách nào? NHTM ra đời là chìa khoá giúp cho người cần vốn có được vốn và người có vốn tạm thời nhàn rỗi có thể kiếm được lãi từ vốn. Các NH cũng cân đối được vốn trong nền kinh tế giúp cho các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển. Các NH đứng ra huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các cá nhân sau đó sẽ cung ứng lại cho nơi cần vốn để tiến hành tái sản xuất với trang thiết bị hiện đại hơn, tạo ra sản phẩm tốt hơn, có lợi nhuận cao hơn. Xã hội càng phát triển nhu cầu vốn cần cho nền kinh tế càng tăng, không một tổ chức nào có thể đáp ứng được. Chỉ có NH
- một tổ chức trung gian tài chính mới có thể đứng ra điều hoà, phân phối vốn giúp cho tất cả các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển nhịp nhàng, cân đối.
1.1.2.2. Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp không phải là cứ sản xuất bất cứ cái gì mà phải luôn trả lời được ba câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? Có nghĩa là sản xuất theo tín hiệu của thị trường. Thị trường yêu cầu các doanh nghiệp phải sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Để được như vậy các doanh nghiệp phải được đầu tư bằng dây truyền công nghệ hiện đại, trình độ cán bộ, công nhân lao động phải được nâng cao... Những hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đầu tư lớn và để đáp ứng được thì chỉ có các Ngân hàng. Ngân hàng sẽ giúp cho các doanh nghiệp thực hiện được các cải tiến của mình, có được các sản phẩm có chất lượng, giá thành rẻ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.1.2.3. NHTM là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước:
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung tâm tiền tệ của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát tiển hài hoà cho tất cả các thành phần kinh tế khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự dao động của Ngân hàng đều gây ảnh hưởng ít nhiều đến các thành phần kinh tế khác. Do vậy sự hoạt động có hiệu quả của NHTM thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là công cụ tốt để Nhà nước tiến hành điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong hệ thống, NHTM đã trực tiếp góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Mặt khác với việc cho các thành phần trong nền kinh tế vay vốn, NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, bảo đảm cung cấp đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế.
1.1.2.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế:
Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với việc hình thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do, làm cho các mối quan hệ thương mại, lưu thông hàng hoá giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng được mở rộng và trở nên cần thiết, cấp bách. Nền tài chính của một quốc gia cần phải hoà nhập với nền tài chính thế giới. Các NHTM là trung gian, cầu nối để tiến hành hội nhập. Ngày nay, đầu tư ra nước ngoài là một hướng đầu tư quan trọng và mang lại nhiều lợi nhuận. Đồng thời các nước cần xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh và nhập khẩu những mặt hàng mà mình thiếu. Các NHTM với những nghiệp vụ kinh doanh như: nhận tiền gửi, cho vay, bảo lãnh...và đặc biệt là các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đã góp phần tạo điều kiện, thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển.
1.2. Vốn của Ngân hàng thương mại:
1.2.1. Khái niệm về vốn của NHTM:
NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với các chức năng cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền. Để thực hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách có hiệu quả, có lợi nhuận thì đòi hỏi các NHTM phải có một lượng vốn hoạt động nhất định.
Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTM như sau:
“Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do bản thân NHTM tạo lập hoặc huy
động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác”.
Khái niệm trên đã nói đầy đủ những thành phần tạo nên vốn của NHTM. Về thực chất, vốn của NHTM là bao gồm các nguồn tiền tệ của chính bản thân NH và của những người có vốn tạm thời nhàn rỗi. Họ chuyển tiền vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau: hoặc lấy lãi, hoặc nhờ thu, nhờ chi hay là dùng các sản phẩm dịch vụ khác của Ngân hàng. Đây chính là họ chuyển quyền sử dụng vốn cho Ngân hàng và số tiền mà Ngân hàng phải trả hay làm các dịch vụ chính là cái giá của quyền sử dụng các giá trị tiền tệ đó. Nhờ việc có được nguồn vốn, các Ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh: cho vay, bảo lãnh, cho thuê,… Nói chung vốn của Ngân hàng chi phối toàn bộ và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM.
1.2.2. Cơ cấu vốn của NHTM:
Vốn của NHTM bao gồm: Vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay, vốn khác,…
Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động của NH và đều có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu của NHTM là vốn tự có do Ngân hàng tạo lập được thuộc sở
hữu riêng của Ngân hàng, thông qua góp vốn của các chủ sở hữu hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh. Ở những nước khác nhau, định nghĩa về vốn tự có có thể khác nhau nhưng nét chung nhất vốn tự có bao gồm các thành phần sau:
- Vốn góp của chủ sở hữu để thành lập hoặc mở rộng Ngân hàng.
- Các quỹ dự trữ được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng theo cơ chế tài chính hoặc quyết định của chủ sở hữu vốn như: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, ...
- Lợi nhuận tạo ra từ hoạt động kinh doanh chưa sử dụng.
- Các khoản nợ được coi như vốn.
Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một Ngân hàng. Do tính chất ổn định, nó thực hiện chức năng thành lập, chức năng bảo vệ và điều chỉnh đối với hoạt động Ngân hàng. Trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng, thì vốn tự có của Ngân hàng chiếm dưới 10%, như vậy vốn ký thác của Ngân hàng khoảng trên 90%. NHNN quy định mức vốn tự có của Ngân hàng lớn hơn hoặc bằng 8% trên tổng tài sản có rủi ro quy đổi, điều này muốn nói lên rằng chức năng chủ yếu của khối lượng giới hạn vốn chủ sở hữu đã được xem như là tài sản bảo vệ cho những người gửi tiền. Chức năng bảo vệ không chỉ được xem như sự bảo đảm thanh toán cho người gửi tiền khi Ngân hàng vỡ nợ, mà còn góp phần duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản có dự trữ để Ngân hàng khỏi bị đe doạ bởi sự thua lỗ, để có thể tiếp tục hoạt động.
Ngoài việc cung cấp nền tảng cho các hoạt động và để bảo vệ người gửi tiền. Chức năng điều chỉnh cũng đã được xác định cho vốn chủ sở hữu của NHTM. Dựa trên mức vốn tự có của Ngân hàng, các cơ quan quản lý xác định, điều chỉnh hoạt động cho Ngân hàng, ví dụ như các Ngân hàng chỉ có thể cho một khách hàng lớn nhất vay không quá 15% vốn tự có của Ngân hàng. Nếu như Ngân hàng cho vay quá số đó sẽ ảnh hưởng đến hoạt động an toàn của Ngân hàng.
1.2.2.2. Vốn huy động:
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong Ngân hàng. Nó là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu với nguồn vốn này và phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi chủ sở hữu có nhu cầu rút vốn. Vốn này luôn biến động nên Ngân hàng không được sử dụng hết mà phải có dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán.
Vốn huy động của NHTM chủ yếu bao gồm: Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế (tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn), huy động từ các tầng lớp dân cư (tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu).
1.2.2.3. Vốn đi vay:
Các NHTM có thể vay vốn từ NHNN, các NHTM hoặc các trung gian tài chính khác và vay từ công chúng, dưới các hình thức:
- Phát hành chứng từ có giá:
Ngân hàng chủ động phát hành kỳ phiếu Ngân hàng để huy động vốn nhằm thực hiện những những dự án đầu tư đã định. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu Ngân hàng được thực hiện theo hai phương thức: Phát hành theo mệnh giá (trả lãi sau, người mua trả tiền theo mệnh giá được ghi trên bề mặt kỳ phiếu) và phát hành bằng hình thức chiết khấu (trả lãi trước, người mua sẽ trả một số tiền bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng).
- Vay của các Ngân hàng và các trung gian tài chính khác:
Vay qua thị trường liên NH nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng trong thời gian ngắn, NH có thể khai thác các khoản vốn nhàn rỗi từ các NH, tổ chức tài chính tín dụng khác. Hoạt động vay mượn này nhằm mục đích điều hòa nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển thông suốt liên tục trong hệ thống NH.