Thực Hành Của Người Dân Về Một Số Biện Pháp Nhằm Phòng, Chống Sán Lá Gan Nhỏ Trước Và Sau Can Thiệp


thời, sau can thiệp người dân đi khám chuyên khoa tăng lên so với trước can thiệp (6,5% tăng lên 89,6%) với chỉ số hiệu quả 1289%.

Bảng 3.21. Thực hành của người dân về một số biện pháp nhằm phòng, chống sán lá gan nhỏ trước và sau can thiệp


Nội dung

Trước

can thiệp

Sau

can thiệp


CSHQ (%)


Giá trị p ( Mc

Nemar test)

Số lượng


%

Số lượng


%

Số điều tra

340

337



Ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín

199

58,5

3

0,9

98,5

p < 0,01

Dùng chung dụng cụ chế

biến thức ăn sống và chín

144

42,4

6

1,8

95,8

p < 0,01

Dùng phân tươi của người hoặc gia súc bón ruộng, nuôi


251


73,8


1


0,3


99,6


p < 0,01

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 204 trang tài liệu này.

Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định năm 2009 - 2012 - 14

Bảng 3.21 cho thấy thực hành của người dân về một số biện pháp nhằm phòng,chống nhiễm sán lá gan nhỏ trước và sau can thiệp, các thực hành phòng, chống nhiễm SLGN của người dân sau can thiệp đều theo hướng có lợi cho sức khoẻ bao gồm: sau can thiệp tỉ lệ người dân ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín đã đã giảm so với trước can thiệp (58,5% giảm xuống 0,9%), với chỉ số hiệu quả 98,5%. Đồng thời, việc sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín; dùng phân tươi của người, gia súc bón ruộng, nuôi cá cũng giảm lần lượt 1,8%; 0,3% so với trước can thiệp 42,4%; 73,8% với chỉ số hiệu quả lần lượt 95,8%; 99,6%. Chỉ số hiệu quả cao nhất là thay đổi hành vi dùng phân tươi của người, gia súc bón ruộng, nuôi cá (99,6%).

3.3.3. Hiệu quả điều trị praziquantel sau 2 năm can thiệp

Sau hai năm can thiệp bằng TTGDSK kết hợp với điều trị đặc hiệu bằng praziquantel 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày nhận thấy đây là phác đồ điều trị


praziquantel nêu trên cho hiệu quả cao, dễ sử dụng cho cộng đồng kết quả cụ thể như sau:

Bảng 3.22. Tỉ lệ sạch trứng sán lá gan nhỏ sau điều trị thuốc praziquantel



Kết quả điều trị (n=63)

Tổng số người


Tỉ lệ sạch trứng (%)

Có trứng SLGN

Không còn trứng SLGN

Trước điều trị

63

0

-

Sau điều trị 24 tháng

0

63

100,00


Bảng 3.22 cho kết quả, tỉ lệ sạch trứng SLGN sau 24 tháng điều trị thuốc praziquantel 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày là 100,0%.

Bảng 3.23. Tỉ lệ giảm trứng sán lá gan nhỏ sau điều trị thuốc praziquantel



Kết quả điều trị (n=63)

Số trứng trung bình/gam phân


Tỉ lệ giảm trứng (%)


Trước điều trị


Sau điều trị

Sau 6 tháng

178

43

75,8

Sau 12 tháng

30

0

100,0

Sau 18 tháng

0

0

-

Sau 24 tháng

0

0

-


Bảng 3.23 cho kết quả, số trứng trung bình/gam phân trước điều trị là 178 PEG, sau điều trị 6tháng là 43 trứng trung bình/gam phân, tỉ lệ giảm trứng là 75,8%. Sau 12thángđiều trị còn 1 trường hợp nhiễm SLGN số trứng trung bình/ gam phân trước điều trị là 30 trứng trung bình/gam phân, sau điều trị số trứng trung bình/gam phân là 0 trứng trung bình/gam phân, tỉ lệ giảm trứng là 100,0%. Sau 18 tháng và 24 tháng số trung bình trứng/gam phân sau điều trị duy trì ổn định là 0 trứng trung bình/gam phân.


Bảng 3.24. Tỉ lệ tái nhiễm sán lá gan nhỏ trong 2 năm can thiệp



Kết quả điều trị (n=63)

Tổng số người


Tỉ lệ tái nhiễm (%)

Còn trứng SLGN

Không còn trứng SLGN

Trước điều trị

63

0

-

Sau 6 tháng

2

61

3,2

Sau 12 tháng

1

62

1,6

Sau 18 tháng

0

63

0,0

Sau 24 tháng

0

63

0,0

Tích lũy sau 24 tháng

3

63

4,7


Bảng 3.24 cho kết quả, sau 6 tháng xét nghiệm lại số người tái nhiễm là 2 người; sau 12 tháng xét nghiệm lại số người tái nhiễm là 1 người; sau 18 tháng và 24 tháng xét nghiệm lại số người tái nhiễm là không phát hiện. Tổng số người tái nhiễm SLGN tích lũy sau 3 lần xét nghiệm là 3 người. Tỉ lệ tái nhiễm tích lũy sau 24 tháng là 4,7%, trong đó tỉ lệ tái nhiễm sau 6 tháng là 3,2%; Sau 12 tháng là 1,6% và sau 18 tháng và 24 tháng là 0,0%. Tỉ lệ tái nhiễm tích lũy sau 24 tháng là 4,7%.

Bảng 3.25. Tỉ lệ mới nhiễm sán lá gan nhỏ sau 24 tháng can thiệp



Thời gian xét nghiệm lặp lại

Tổng số người


Tỉ lệ mới nhiễm (%)

Số người được xét nghiệm

Số người có trứng SLGN

Trước điều trị

400

63

-

Sau can thiệp 24 tháng

397

0

0,0

Bảng 3.25 cho thấy, sau 24 tháng xét nghiệm lại cho 334 người dân không phát hiện thấy trứng SLGN trong nghiên cứu trước can thiệp kết quả không phát hiện thấy trường hợp nào có trứng SLGN trong phân. Do vậy, tỉ lệ mới nhiễm SLGN là 0,0% sau 24 tháng can thiệp bằng TTGDSK kết hợp với điều trị SLGN bằng praziquantel cho các đối tượng nhiễm SLGN.


Chương 4: BÀN LUẬN

4.1.Tỉ lệ nhiễm và loài sán lá gan nhỏ ở người và ở cá nước ngọt nuôi tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định

4.1.1. Tỉ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ ở người

Kết quả xét nghiệm phân tìm trứng sán lá gan nhỏ cho 400 người dân từ 1 tuổi trở lên sống tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN ở người là 15,8%. Tỉ lệ nhiễm SLGN ở người dân sống tại thị trấn Rạng Đông cao hơn so với tỉ lệ nhiễm SLGN ở người dân tại Triều Tiên trong nghiên cứu khảo sát tỉ lệ hiện mắc SLGN của cư dân sống trong các làng dọc theo 4 sông chính là Nakdong-gang, Seomjin-gang, Youngsan-gang và Guem- gang ở phía nam của Triều Tiên năm 2006 (11,1%) [88] và tỉ lệ nhiễm C. sinensis năm 2016 ở người dân sống dọc 5 sông chính ở Triều Tiên có tỉ lệ nhiễm C. sinensis là 8,4% [147] thì nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ nhiễm cao hơn nhưng so với tỉ lệ nhiễm SLGN (40-48%) năm 2008 ở người dân sống gần sông Nakdong [123] và điều tra tại tỉnh Kwangtung, Trung Quốc có tỉ lệ nhiễm SLGN là 40% [29] thì tỉ lệ nhiễm SLGN trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn. Điều này có thể do tập quán ăn gỏi cá và một số yếu tố liên quan đến nhiễm SLGN ở mỗi vùng lãnh thổ của các quốc gia có sự khác nhau và hiện nay các thuốc điều trị đặc hiệu đối với SLGN đã được sản xuất và sử dụng có hiệu quả ở những địa phương có tỉ lệ nhiễm SLGN cao như ở Triều Tiên, Trung Quốc. Ở Việt Nam, tỉ lệ nhiễm SLGN ở thị trấn Rạng Đông 15,8% không khác so với kết quả nghiên cứu của Đinh Thị Thanh Mai ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa năm 2011 (16,8%) [24] và kết quả nghiên cứu nhiễm SLGN tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng năm 2013 trên 510 đối tượng có tỉ lệ nhiễm SLGN chung tại cộng đồng là 15,69% [17], nhưng cao hơn kết quả điều tra tại 5 huyện thuộc tỉnh Nghệ An năm 2006 (0,06%) của Nguyễn Văn Đề [30] và của cùng tác giả năm 2001 tại 10 huyện của tỉnh Hòa Bình là 5% [23]. So với tỉ lệ nhiễm SLGNở người tại xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, Hà Nội năm 2004 (39%) [53], 03 huyện ven biển tỉnh Nam Định năm 2009 và huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình năm 2005 [46, 48, 62] kết quả của chúng tôi thấp hơn. Tỉ lệ nhiễm SLGN trong nghiên cứu này tương tự với kết quả nghiên cứu tại


huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, có thể do đây là địa phương thuộc đồng bằng ven biển bắc trung bộ và người dân ở huyện Nga Sơn cũng có tập quán ăn gỏi cá tương tự như ở huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, còn tỉ lệ nhiễm SLGN (15,8%) ở thị trấn Rạng Đông cao hơn ở Nghệ An và Hoà Bình do đây là 2 tỉnh miền núi, không thuộc vùng đồng bằng bắc bộ là vùng nơi người dân có thói quen ăn gỏi cá từ lâu đời. Như vậy, tỉ lệ nhiễm SLGN khác nhau ở từng vùng ngoài các yếu tố có liên quan đến nhiễm SLGN như tập quán ăn uống, tập quán canh tác, vệ sinh môi trường khác nhau, còn có yếu tố địa hình, đặc điểm dân cư của từng địa phương. Cùng nằm trên dải ven biển từ huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đến huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình nhưng tỉ lệ SLGN ở thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định thấp hơn ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định và huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình có thể do nguồn gốc dân khác nhau, thị trấn Rạng Đông hình thành từ nông trường Rạng Đông một quần thể người từ nhiều tỉnh khác nhau có cả bộ đội miền Nam tập kết và người dân từ các tỉnh khác đến sinh sống và làm công nhân tại nông trường Rạng Đông những người này có thể đến từ các địa phương nơi người dân không có thói quen ăn gỏi cá. Thói quen ăn gỏi cá thường gặp ở người dân bản xứ là dân cư của vùng đồng bằng ven biển Bắc bộ [30, 47]. Tuy nhiên, việc triển khai nghiên cứu ở người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cho thấy ăn gỏi cá là một thói quen ăn uống có ảnh hưởng mang tính cộng đồng, có những người trước đây chưa từng ăn gỏi cá nhưng thấy người khác ăn và được mời thì cũng sẽ ăn và trở thành thói quen nếu không có các biện pháp TTGDSK phòng, chống nhiễm SLGN được thực hiện thường xuyên trong cộng động để người dân biết được tác hại của SLGN từ đó có kế hoạch cho bản thân, gia đình và cộng đồng trong việc từ bỏ thói quen ăn gỏi cá và thực hiện các biện pháp bảo vệ vật nuôi và môi trường xung quanh nhằm phòng, chống SLGN.

Trong số 400 người dân sống tại thị trấn Rạng Đông, độ tuổi từ 1-14 tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi chưa phát hiện thấy nhiễm SLGN. Tỉ lệ nhiễm SLGN ở các nhóm tuổi không khác biệt (p>0,05) tuy vậy, tỉ lệ nhiễm SLGN ở nhóm trên 60 tuổi (24,4%) có cao hơn các nhóm tuổi khác. Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu của các tác giả Trung Quốc trong một khảo sát quốc gia liên quan đến


đỉnh của tỉ lệ nhiễm C.sinensis là ở ba nhóm tuổi là 30-34 tuổi; 45-49 tuổi và 75-79 tuổi năm 2004 [143]. Ở Triều Tiên, tỉ lệ nhiễm cũng như cường độ nhiễm là tăng theo tuổi đến 50 tuổi bởi sự ảnh hưởng tích lũy của sự nhiễm SLGN đặc biệt đối với những người có thói quen ăn gỏi cá, cá nấu chưa chín. Tất cả các số liệu có liên quan cho thấy, tỉ lệ nhiễm thấp ở dưới 20 tuổi nhưng tăng liên tục trong các độ tuổi 20 tuổi, 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi và giảm xuống rõ rệt sau 60 tuổi. Các đỉnh của tỉ lệ mắc thường ở độ tuổi 40 tuổi hoặc 50 tuổi theo thời gian và địa điểm. Một khảo sát theo nhóm tuổi cho thấy trong các nhóm tuổi 0-9; 10-19; 20-29; 30-39; 40-49; 50-59

và 60 trở lên có tỉ lệ mắc tương ứng là 0,6%; 18,9%; 25,5%; 29,9%; 26,6%; 20,1% [95, 122]. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả tương tự với nghiên cứu ở Việt Nam của Nguyễn Văn Đề, Trương Tiến Lập năm 2009, Đỗ mạnh Cường năm 2013, Đinh Thị Thanh Mai năm 2014, cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN ở nhóm tuổi dưới 20 tuổi thấp hơn các lứa tuổi trên 20 tuổi, còn nhóm tuổi trên 60 tỉ lệ nhiễm cao hơn các nhóm tuổi khác [17, 46, 51]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương năm 2000, cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định tập trung chủ yếu ở lứa tuổi từ 30-59 tuổi, nhóm tuổi dưới 15 chưa phát hiện thấy trường hợp nào nhiễm SLGN, còn tại huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên cho thấy nhóm tuổi từ 1-14 tuổi cũng chưa phát hiện thấy nhiễm SLGN [12,17]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương và nghiên cứu Đỗ Mạnh Cường nêu trên là chưa phát hiện nhiễm SLGN ở người dưới 15 tuổi. Do vậy, trong nghiên cứu can thiệp cộng đồng phòng, chống SLGN, chúng tôi triển khai trên đối tượng từ 15 tuổi trở lên.

Kết quả nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam (30,1%) cao hơn nữ (7,5%), kết quả này tương tự với các nghiên cứu trên thế giới, ở Triều Tiên, hầu hết các báo cáo về tỉ lệ nhiễm C. sinensis ở người đều ghi nhận nam bị nhiễm nhiều hơn nữ. Một khảo sát quốc gia về bệnh SLGN ở khu vực hai bên sông thấy tỉ lệ hiện mắc trung bình là 21,5%, trong đó 24,0% ở nam giới và 17,4% ở nữ giới năm 1981 [95,122] và kết quả một khảo sát về tỉ lệ nhiễm C. sinensis ở người dân sống dọc 5 sông chính ở Triều Tiên, tỉ lệ nhiễm C. sinensis là 8,4%, trong đó tỉ lệ nhiễm ở nam là 11,2% và ở nữ là 6,2% năm 2016 [147]. Ở Trung Quốc, không có sự khác nhau


đáng kể trong tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam và nữ dưới 15 tuổi. Tỉ lệ nhiễm nặng hơn ở nam so với nữ trong các nhóm tuổi từ 20 tuổi đến 75 tuổi. Một nghiên cứu gần đây ở vùng dịch tễ của Guangxi cũng chỉ ra kết quả tương tự về sự phân bố theo tuổi và giới đối với nhiễm SLGN C. Sinensis [142, 143,145]. Ở Lào, năm 2010, một nghiên cứu cho học sinh thuộc huyện Champhon, tỉnh Savannakhet cho tỉ lệ nhiễm SLGN chung là 42,8% trong đó, nam 58,9% và nữ 26,7% [50]. Tương tự các nghiên cứu trên thế giới về tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam và ở nữ giới, ở Việt Nam, tại tỉnh Phú Thọ, nghiên cứu tiến hành trên 400 công nhân của 3 công ty chè cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN nhỏ là 22,25%, trong đó tỉ lệ nhiễm SLGN ở nữ công nhân là 16,7%, ở nam là 27,4% năm 2008 [42]. Tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng, tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam là 17,07% và ở nữ là 14,39% [17]. Tại xã Nga Tân, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, tỉ lệ nhiễm SLGN C. sinensi là 11% , trong đó nam giới nhiễm SLGN cao hơn nữ giới trên 6 lần [24]. Tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá,tỉ lệ nhiễm SLGN trong đối tượng từ 15 tuổi trở lên là 25,3%, tỉ lệ nhiễm ở nam là 34,4% cao gấp 2 lần ở nữ năm 2004 [39]. Tại xã Hoằng Tiến, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, tỉ lệ nhiễm SLGN ở người dân từ 15 tuổi trở lên là 8,7%, trong đó tỉ lệ nhiễm ở nam cao hơn ở nữ (11,2% so với 1,2%) [49]. Tại tỉnh Nam Định và Ninh Bình, Nguyễn Văn Đề và cộng sự cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam cao hơn ở nữ 4 lần [25]. Nghiên cứu tại 3 huyện ven biển tỉnh Nam Định, năm 2009, cho thấy tỉ lệ nhiễm SLGN 24,7%, trong đó, nam (35,7%) cao hơn nữ (15,6%) [46]. Tại Đắc Lắc, nghiên cứu tại lưu vực sông Srepok cho thấy nhiễm SLGN ở nam là 6,6% và nữ là 7,0% [19]. Tại xã Mỹ Quang, Huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, tỉ lệ nhiễm SLGN chung của người dân là 10,9 %. Tỉ lệ nhiễm ở nam là 18,2% nữ là 3,8% [68]. Tỉ lệ nhiễm SLGN ở nam cao hơn ở nữ có thể do nam giới thường có thói quen ăn ngoài cùng bạn bè, uống rượu và ăn gỏi cá với quan niệm cho rằng uống rượu sẽ có tác dụng tiêu diệt hết các mầm bệnh trong thức ăn sống, chưa được nấu chín. Tuy nhiên, nghiên cứu của Đỗ Trung Dũng, Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương và cộng sự, năm 2016, đánh giá thực trạng nhiễm ấu trùng sán lá trên cá và ảnh hưởng của nước chanh tươi với rượu etanol tới khả năng sống sót của ấu trùng metacercaria SLGN C.sinensis đã cho kết quả ấu


trùng SLGN C. sinensis thử nghiệm trong các nồng độ rượu 40o, 30o, 20o, trong nước chanh nguyên chất, nước chanh 50%, nước chanh 25% sau 12 giờ đồng hồ đều không bị thoái hoá, chứng tỏ rượu và nước chanh ở các nồng độ khác nhau không ảnh hưởng đến khá năng sống, không tiêu diệt được ấu trùng C. sinensis. Kết quả của nghiên cứu đã góp phần đánh giá ô nhiễm thực phẩm bởi mầm bệnh ký sinh trùng, đặc biệt cảnh báo cho việc sử dụng các nguồn cá là thực phẩm, tiềm ẩn nguy cơ nhiễm SLGN nếu sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín dùng để ăn ngay, đồng thời nghiên cứu khẳng định quan niệm không đúng khi cho rằng rượu hoặc nước chanh có thể diệt được ấu trùng SLGN C. sinensis và cần có các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khoẻ nhằm thay đổi nhận thức về vệ sinh an toàn thực phẩm và thói quen ăn gỏi cá tại các vùng dịch tễ của bệnh SLGN [18].

Kết quả nghiên cứu này cho thấy, tỉ lệ nhiễm SLGN có sự khác nhau (p

<0,001) giữa những người có nghề nghiệp khác nhau, những người làm ruộng có tỉ lệ nhiễm SLGN (19,5%) cao hơn những người làm nghề khác (7,4%), kết quả của chúng tôi tương tự với kết quả nghiên cứu ở Trung Quốc, tỉ lệ nhiễm SLGN cao trong nông dân và tiểu thương (2,41%), thương gia (0,79%), giáo viên (0,59%) và binh lính (0,50%) [143]. Ở Việt Nam, tại phường Hoà Nghĩa, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng, tỉ lệ nhiễm SLGN ở học sinh, sinh viên, giáo viên, người nghỉ hưu, mất sức là 0,00%, ở công nhân, cán bộ viên chức là 10,81% và ở nông dân là 18,37% [17]. Nghiên cứu của Đỗ Thái Hòa tại xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa cho thấy trong số những người từ 15 tuổi trở lên nhóm đối tượng làm nghề nông có tỉ lệ nhiễm SLGN cao gấp gần 2 lần so với các nhóm đối tượng có nghề nghiệp khác [39], đều có tỉ lệ nhiễm SLGN cao ở những người làm nghề nông nghiệp. Điềun này cũng phù hợp với kết quả của nghiên cứu này khi chỉ ra rằng có mối liên quan giữa trình độ học vấn và tình trạng nhiễm SLGN ở người.

Trong nghiên cứu này, tỉ lệ nhiễm SLGN cao ở những người có trình độ học vấn thấp, tỉ lệ nhiễm cao nhất ở người có trình độ học vấn tiểu học là 33,3%. Kết quả nghiên cứu này tương tự kết quả nghiên cứu xã Nga An, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá cho thấy nhóm có học vấn từ phổ thông trung học trở lên có tỉ lệ nhiễm

Xem tất cả 204 trang.

Ngày đăng: 28/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí