Sự Phù Hợp, Khả Năng Duy Trì Và Tính Bền Vững Của Mô Hình Can Thiệp Lồng Ghép Hoạt Động Phòng, Chống Nhiễm Sán Lá Gan Nhỏ Dựa Vào Cộng Đồng Ở


Thuốc điều trị có vai trò chính trong kiểm soát sự hoành hành của bệnh và phòng chống sự lây truyền qua việc giảm tỉ lệ hiện mắc của SLGN và cường độ nhiễm nếu được sử dụng đúng cách [82].

Kết quả nghiên cứu cho thấy, sau hai năm can thiệp bằng TTGDSK kết hợp với điều trị đặc hiệu bằng praziquantel 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày nhận thấy đây là phác đồ điều trị praziquantel nêu trên cho hiệu quả cao, dễ sử dụng cho cộng đồng kết quả cụ thể như sau:tỉ lệ sạch trứng SLGN sau 24 tháng điều trị thuốc praziquantel 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày là 100,0%; Số trứng trung bình/gam phân trước điều trị là 178 PEG, sau điều trị 6 tháng là 43 trứng trung bình/gam phân, tỉ lệ giảm trứng là 75,8%. Sau 12 thángđiều trị còn 1 trường hợp nhiễm SLGN số trứng trung bình/ gam phân trước điều trị là 30trứng trung bình/gam phân, sau điều trị số trứng trung bình/gam phân là 0 trứng trung bình/gam phân, tỉ lệ giảm trứng là 100,0%. Sau 18 tháng và 24 tháng số trung bình trứng/gam phân sau điều trị duy trì ổn định là 0 số trứng trung bình/gam phân.Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, phác đồ điều trị của thuốc paraziquantel 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày, mỗi lần cách nhau 4-6 giờlà có hiệu quả, phù hợp và dễ áp dụng trong cộng đồng. Các kết quả nghiên cứu về hiệu quả điều trị trên thế giới và ở Việt Nam cũng phù hợp với nghiên cứu này của chúng tôi. Ở Trung Quốc, một dự án kiểm soát bệnh SLGN thí điểm đã được thực hiện để đánh giá hiệu quả của các chiến lược sử dụng thuốc điều trị khác nhau lên tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ mắc phải và tỉ lệ tái nhiễm ở tỉnh Heilongjiang. Bảy nhóm can thiệp (14.139 người dân địa phương, khoảng 2000 người trong mỗi nhóm) trong các vùng dịch nặng và dịch vừa phải là đối tượng để điều trị praziquantel nhiều lần từ 2001 đến 2004. Các nhóm điều trị chọn lọc bằng thuốc là các cư dân đã được xét nghiệm có trứng ở trong phân và những người được xét nghiệm dương tính này được điều trị với 3 liều 25mg/kg của praziquantel cách khoảng 5 giờ mỗi liều trong 1 ngày cho tất cả các các cư dân được điều trị trong các nhóm điều trị hàng loạt. Trong các vùng dịch nặng, điều trị hàng loạt hai lần cho tất cả các cư dân vào năm 2001 và 2003 đã giảm tỉ lệ hiện mắc từ 69,5% xuống 18,8%, trong khi điều trị hàng loạt hàng năm 4 lần đã giảm tỉ lệ hiện mắc từ 48,0% trong năm 2001 xuống 8,4% năm 2004. Điều trị hàng năm có chọn lọc cho các đối tượng


dương tính với trứng đã giảm tỉ lệ dương tính với trứng từ 54,9% trong năm 2001 xuống 15,0% trong năm 2004. Điều trị chọn lọc 6 tháng một lần giảm một cách đáng chú ý tỉ lệ hiện mắc từ 59,5% năm 2001 xuống còn 7,5% năm 2004. Tất cả những đối tượng được điều trị nhắc lại đều đã giảm tỉ lệ trứng SLGN /1 gam phân một cách đáng chú ý. Điều trị hàng loạt hàng năm và điều trị có chọn lọc 6 tháng một lần đã làm giảm tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ tái nhiễm, tỉ lệ giảm trứng xuống nhiều hơn so với điều trị có chọn lọc hàng năm. Trong các vùng dịch vừa phải, tỉ lệ dương tính với trứng là 24,8% và 29,7% trong năm 2001, đã giảm xuống còn 1,9% và 1,3% sau 2 hoặc 3 lần điều trị chọn lọc. Tỉ lệ hiện mắc, tỉ lệ mắc phải, tỉ lệ tái nhiễm trong một vùng dịch tễ vừa phải là thấp hơn một cách đáng kể so với những tỉ lệ này của các vùng dịch tễ nặng. Nghiên cứu cho thấy,điều trị hàng loạt nhắc lại hoặc điều trị chọn lọc với praziquantel sau 6 đến 12 tháng nhắc lại là có hiệu quả cao cho phòng chống bệnh SLGN trong các vùng dịch nặng. Trái lại, điều trị chọn lọc 1 hoặc 2 lần cùng với giáo dục sức khỏe là có hiệu quả ở những vùng dịch vừa phải [87]. Kết quả nghiên cứu này định hướng và phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi.Ở Triều Tiên, tỉ lệ hiện mắc C. sinensis vẫn cao bởi vì phát hiện ca bệnh trong cộng đồng là khó khăn và các trường hợp đã được phát hiện thường không được chữa khỏi hoàn toàn do điều trị thất bại. Qua xét nghiệm phân, tỉ lệ dương tính với trứng sán trong làng là 22,7%, nhưng đã giảm xuống 19,6% sau 6 tháng, 15,1% sau 12 tháng,

12,2% sau 18 tháng, 6,3% sau 24 tháng, 11,4% sau 30 tháng và 6,3% sau 42 tháng kể từ khi bắt đầu điều trị bằng praziquantel nhắc lại. Kết quả của nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng phòng, chống SLGN trong một làng có dịch bệnh bằng điều trị praziquantel lặp lại sau 42 tháng là hiệu quả chưa cao [93].Ở Lào, một nghiên cứu tiến hành năm 2006-2010 trên 217 bệnh nhân đến khám bệnh tại khoa Truyền nhiễm bệnh viện 103 Viêng Chăn, chia thành 2 nhóm. Nhóm 1 theo phác đồ A (praziquantel 75mg/kg cho 1 ngày chia 3 lần, uống cách nhau 6-8 giờ). Nhóm 2 theo phác đồ B (praziquantel 25mg/kg/1ngày cho 3 ngày liên tục, uống vào 1 thời điểm nhất định trong ngày). Tỉ lệ sạch trứng ở phác đồ A tại các thời điểm: sau 7 ngày, sau 1 tháng, sau 3 tháng, sau 6 tháng là: 90,74%; 95,37%; 96,30% và 97,22%, trong khi phác đồ B là: 72,48%; 71,56%; 88,99% và 87,16%. Hiệu quả điều trị phác


đồ A tại cộng đồng (ở 3 trường học huyện Champhon, Savanakhett, Lào): tỉ lệ sạch trứng sau 7 ngày, sau 1 tháng, sau 3 tháng, sau 6 tháng là: 74,46%; 94,81%; 82,25% và 48,48% [50].Ở Việt Nam, thuốc praziquantel đã được nhiều tác giả sử dụng điều trị bệnh SLGN ở liều lượng khác nhau. Nghiên cứu của Trịnh Thị Bích Hạnh, điều trị cho 20 bệnh nhân nhiễm SLGN bằng praziquantel liều 50mg/kg/ngày uống liên tục 2 ngày liền kết quả 100% sạch trứng sau 6 tháng theo dõi, không có tác dụng không mong muốn của thuốc [38]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chương, điều trị bệnh nhân nhiễm SLGN O. viverrini vùng ven biển miền trung Việt Nam bằng praziquantel liều 25mg/kg/ngày điều trị 3 ngày liên tục và theo dõi trong 2 năm tỉ lệ sạch trứng 80% [10]. Nghiên cứu của Đặng Thị Cẩm Thạch, sử dụng phác đồpraziquantel liều 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày có hiệu quả cao trong điều trị C. sinensis tại thực địa với tỉ lệ sạch trứng trên 96% và giảm trứng trên 99% sau can thiệp 6 tháng [62]. Nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng, tỉ lệ sạch trứng SLGN trong phân sau tẩy bằng praziquantel với phác đồ 20mg/kg/lần x 3 lần x 1 ngày, mỗi lần uống thuốc cách nhau 4 đến 6 giờ, uống sau bữa ăn là 97,7% [42]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Đề, về hiệu quả điều trị của thuốc đặc hiệu praziquantel cho thấy việc điều trị sán lá gan bằng delagyl 0,5g/ngày x 10 ngày x 2 đợt, sạch trứng 45%; cloxyl 3g/ngày x 5 ngày, sạch trứng 70%; azinox 25mg/kg/ngày x 3 ngày ngày, sạch trứng 51%; medamin 10mg/kg/ngày x 5 ngày, sạch trứng 19%; mebendazole 10mg/kg/ngày x 5 ngày, sạch trứng 11,6%; artemisinin 500mg/ngày x 5 ngày, sạch trứng 28,6%; praziquantel 25mg/kg/ngày x 3 ngày, khỏi bệnh 65-91%. Can thiệp một phần bằng điều trị đặc hiệu, làm giảm đáng kể bệnh sán lá gan. Mỗi năm điều trị một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ 27,4% xuống còn 23,9% sau một năm và còn 11,8% sau hai năm. Cường độ nhiễm giảm từ 1167 trứng/gam phân xuống còn 671 trứng/g phân sau một năm và còn 431 trứng/g phân sau 2 năm. Hai năm điều trị một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ 29,6% xuống còn 19,1% sau hai năm và còn 10,3% sau bốn năm, cường độ nhiễm thay đổi không đáng kể (448 trứng/gam phân so với 437 trứng/gam phân). Ba năm điều trị một lần, giảm tỉ lệ nhiễm sán lá gan từ 36,9% xuống còn 29,2%, cường độ nhiễm thay đổi đáng kể (303 trứng/gam phân so với 321 trứng/ gam phân) [20]. Nghiên cứu trên 56 bệnh nhân nhiễm SLGN C.


sinensis, được điều trị bằng albendazole 400 mg/ngày x 3 ngày. Kết quả xét nghiệm phân sau 6 tháng, tỉ lệ sạch trứng 37,5%, tỉ lệ giảm trứng 45,6% [26]. Nghiên cứu của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng và Côn trùng trung ương các thuốc thuộc nhóm Benzimidazole được dùng trong điều trị SLGN với kết quả như sau: medamin 10mg/kg/ngày x 5 ngày, kết quả sạch trứng 19%, mebendazole 10mg/kg/ngày x 5 ngày, kết quả sạch trứng 11,6%, albendazole 400mg/kg/ngày x 3 ngày sau 6 tháng, kết quả sạch trứng 37,5%, tỉ lệ giảm trứng 45,6% [21].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 204 trang tài liệu này.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi và các kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy việc điều trị bằng thuốc praziquantel liều 25mg/kg x 3 lần/ngày x 1 ngày, có hiệu quả cao, dễ uống, liệu trình điều trị 1 ngày duy nhất, uống đơn thuần 1 loại thuốc, tác dụng không mong muốn chỉ thoáng qua, không phải xử lý, do đó áp dụng tại cộng đồng thuận tiện hơn nhiều so với các loại thuốc điều trị SLGN khác. Phác đồ trên áp dụng cho cộng đồng là an toàn và ổn định qua nhiều năm, dễ áp dụng và được cộng đồng chấp nhận.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ tái nhiễm sán lá gan nhỏ trong 2 năm can thiệp như sau: sau 6 tháng xét nghiệm lại số người tái nhiễm là 2 người; sau 12 tháng xét nghiệm lại số người tái nhiễm là 1 người; sau 18 tháng và 24 tháng xét nghiệm lại số người tái nhiễm là không phát hiện. Tổng số người tái nhiễm SLGN tích lũy sau 3 lần xét nghiệm là 3 người. Tỉ lệ tái nhiễm tích lũy sau 24 tháng là 4,7%, trong đó tỉ lệ tái nhiễm sau 6 tháng là 3,2%; Sau 12 tháng là 1,6% và sau 18 tháng và 24 tháng là 0,0%. Tỉ lệ tái nhiễm tích lũy sau 24 tháng là 4,7%.

Đánh giá hiệu quả can thiệp cộng đồng phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ của người dân tại thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định năm 2009 - 2012 - 17

Bệnh SLGN có đặc điểm là miễn dịch yếu, không bảo vệ được cơ thể vật chủ nên sau khi ra khỏi cơ thể vật chủ, khỏi bệnh vẫn có thể bị nhiễm lại. Ở điều kiện khí hậu nhiệt đới, tập quán vệ sinh, tập quán ăn uống, quản lý phân v.v. như ở nước ta hiện nay tạo điều kiện cho việc tái nhiễm xẩy ra dễ dàng hơn. Do đó, đã điều trị hết ký sinh trùng vẫn cần phải phòng, chống tái nhiễm, vệ sinh ăn uống và chống ô nhiễm môi trường bởi mầm bệnh ký sinh trùng nói chung và mầm bệnh SLGN nói riêng. Vì đối với mầm bệnh SLGN sau khi đã bị thải ra khỏi cơ thể người do tác dụng của thuốc điều trị SLGN, thì trứng SLGN theo phân ra ngoài môi trường có thể tiếp tục tham gia vào chu kỳ phát triển của SLGN. Ở Lào, nghiên cứu của


Mahavong năm 2010, cũng cho thấy tuổi càng cao tái nhiễm càng cao, sau điều trị tỉ lệ tái nhiễm tăng nhanh, lý do là vì chưa áp dụng biện pháp can thiệp bền vững và đặc biệt là tập quán, thói quen ăn uống của đối tượng nghiên cứu còn phụ thuộc nhiều vào gia đình [50]. Kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Ở Việt Nam, nghiên cứu về tình hình tái nhiễm trên bệnh nhân sau điều trị SLGN và một số yếu tố liên quan tại xã Khánh Thượng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội) năm 2003 cho thấy: tỉ lệ tái nhiễm SLGN trên đối tượng nghiên cứu là khá cao 47,5%; Nguy cơ tái nhiễm SLGN ở nam cao gấp 4 lần so với nữ do tập quán và thói quen ăn gỏi có chủ yếu là nam. Người dân và chính quyền xã rất mong muốn được áp dụng các biện pháp phòng, chống bệnh SLGN phù hợp với điều kiện địa phương đó là truyền thông, cải tạo ao cá và điều trị cho người bệnh ngay tại địa phương [53]. Nghiên cứu tình trạng tái nhiễm trên bệnh nhân sau điều trị SLGN, các yếu tố liên quan và một số giải pháp can thiệp tại xã Đội Bình, huyện Ứng Hoà, Hà Nội, năm 2009 cho thấy: trong số 141 người điều tra, tỉ lệ tái nhiễm SLGN trên những bệnh nhân sau 8 đến 36 tháng điều trị SLGN của đối tượng nghiên cứu là 47,5%. Trong đó, có 29,8% nam giới bị tái nhiễm ở mức độ nặng. Nguyên nhân chính gây tái nhiễm SLGN là do tập quán ăn gỏi cá tại địa phương [37]. Qua 2 nghiên cứu trên cho thấy theo thời gian từ năm 2003 đến năm 2009, tỉ lệ tái nhiễm SLGN trên người dân của huyện Ba Vì và huyện Ứng Hoà, thành phố Hà Nội đều là 47,5%. Kết quả của các nghiên cứu ở trên cho thấy, tỉ lệ tái nhiễm SLGN cao hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Tỉ lệ tái nhiễm ở hai nghiên cứu trên ở Hà Nội, không giảm theo thời gian mặc dù các đối tượng nhiễm SLGN đã được điều trị, điều này cho thấy để phòng, chống SLGN cho người dân và cộng đồng, phòng, chống tái nhiễm SLGN ngoài việc điều trị đặc hiệu cho người dân thì cần phải duy trì thường xuyên, liên tục các hoạt động truyền thông, giáo dục sức khoẻ nhằm nâng cao nhận thức của người dân. Việc sử dụng biện pháp điều trị SLGN là chưa đủ để phòng, chống tái nhiễm và kiểm soát triệt để đối với sự nhiễm SLGN trong cộng đồng. Để kiểm soát tốt sự nhiễm SLGN và giảm tỉ lệ nhiễm SLGN và tỉ lệ tái nhiễm cần áp dụng phối hợp giữa điều trị bằng thuốc điều trị SLGN praziquantel kết hợp với TTGDSK cho người dân trong cộng đồng có sự tham gia của chính quyền, ban, ngành, đoàn thể để


tạo ra một phong trào phòng, chống SLGN có như vậy mới thay đổi được hành vi nguy cơ lây nhiễm SLGN đã có từ lâu ở một số địa phương là ăn gỏi cá, cá sống, thói quen sử dụng chung dụng cụ chế biến thức ăn sống và thức ăn chín, thói quen sử dụng phân tươi của người hoặc gia súc để bón ruộng, nuôi cá đã có từ lâu trong cộng đồng.

Các kết quả nghiên cứu thu được về hiệu quả can thiệp bằng truyền thông, giáo dục sức khỏe kết hợp với điều trị đặc hiệu praziquantel ở thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định này sau hai năm cho thấybiện pháp kết hợp giữa điều trị đặc hiệu bằng praziquantel và TTGDSK phòng, chống SLGN là có hiệu quả và có thể áp dụng cho các địa phương nơi người dân có thói quen ăn gỏi cá, có tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm SLGN tương tự như ở thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

4.3.3. Sự phù hợp, khả năng duy trì và tính bền vững của mô hình can thiệp lồng ghép hoạt động phòng, chống nhiễm sán lá gan nhỏ dựa vào cộng đồng ở thị trấn Rạng Đông

Bệnh SLGN là bệnh lưu hành địa phương có liên quan đến thói quen ăn gỏi cá và được phân bố ở ít nhất tại 32 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó tỉ lệ bệnh SLGN lưu hành cao ở các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Phú Yên, Bình Định [7, 24, 61]. Các hoạt động phòng, chống SLGN ở Việt Nam đã triển khai ở một số địa phương bằng điều trị praziquantel cho những người nhiễm SLGN, biện pháp này, tuy có làm giảm tỉ lệ nhiễm SLGN nhưng đến nay nhiễm SLGN vẫn còn là vấn đề sức khỏe của cộng đồng ở những địa phương có tập quán ăn gỏi cá do nhiều nguyên nhân trong đó có nhận thức và thực hành phòng, chống SLGN của người dân trong cộng đồng còn thấp [16], nguồn nhân lực và vật lực cho phòng, chống SLGN nhiều nơi chưa được đầu tư như ở thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Do vậy, để phòng, chống SLGN có hiệu quả trong khi nguồn nhân lực và vật lực cho triển khai các hoạt động phòng, chống SLGN chưa cótrong nghiên cứu này chúng tôi đã triển khai mô hình các hoạt động can thiệp cộng đồng phòng, chống SLGN bằng TTGDSK thông qua việc lồng ghép nội dung phòng, chống SLGN vào chương trình an toàn thực phẩm và lồng ghép vào hoạt động của các tổ chức đoàn


thể trên địa bàn nhằm xã hội hoá công tác phòng, chống SLGN, tăng cường vai trò chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể tại địa phương trong việc phối hợp cùng với ngành y tế truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống SLGN nhằm giảm tỉ lệ nhiễm SLGN trong cộng đồng, góp phần giảm tải cho y tế tuyến trên trong việc điều trị các bệnh lý do nhiễm SLGN gây ra.

Mô hình can thiệp lồng ghép hoạt động phòng, chống SLGN dựa trên các đơn vị, tổ chức có sẵn đó là Ban Chỉ đạo liên ngành An toàn vệ sinh thực phẩm của thị trấn Rạng Đông để chỉ đạo hoạt động phòng, chống SLGN với sự tham gia của các tổ chức liên quan gồm: Uỷ ban nhân dân thị trấn Rạng Đông giữ vai trò chính trong việc chỉ đạo phối hợp liên ngành giữa y tế cơ sở với các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức xã hội và nhà trường trên địa bàn can thiệp. Nghiên cứu sinh, các chuyên gia về ký sinh trùng (các thầy hướng dẫn và cán bộ bộ môn Ký sinh trùng của trường Đại học Y Hà Nội, Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương), Trạm trưởng Trạm y tế thị trấn Rạng Đông giữ vai trò thường trực điều phối các hoạt động phòng, chống bệnh SLGN. Các hoạt động TTGDSK phòng, chống SLGNchủ yếu của chương trình bao gồm:

Truyền thông gián tiếp: Phổ biến các kiến thức phòng, chống bệnh SLGN qua hệ thống truyền thanh của thị trấn theo chiến dịch 3 lần trong năm vào tháng 12, tháng 4 và tháng 9. Treo Pano về phòng, chống bệnh SLGN theo nội dung đã được Viện Sốt rét – Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương thiết kế tại nơi công cộng gồm bản tin của trường học, chợ, cơ sở y tế. Phát sách mỏng hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh giun sán do Viện Sốt rét-Ký sinh trùng- Côn trùng Trung ương biên soạn và tờ rơi có nội dung phòng, chống SLGN cho các đối tượng nghiên cứu và người đứng đầu Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người Cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Đoàn TNCSHCM để tuyên truyền về phòng, chống nhiễm SLGN.Phát sách mỏng và tờ rơi về các biện pháp đảm bảo an toàn thực phẩm trong chế biến, lựa chọn và tiêu dùng thực phẩm đến đối tượng nghiên cứu và người đứng đầu Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người Cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Đoàn TNCSHCM để tuyên truyền về các biện pháp vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường, phòng, chống


nhiễm SLGN. Phát động chiến dịch vệ sinh môi trường: 01 đợt/ năm x 12 khu dân cư x 2 năm.

Truyền thông trực tiếp: tập huấn cho cán bộ trạm y tế thị trấn: 01buổi/quý x 2 năm; Tập huấn cho cán bộ y tế thôn: 01buổi/quý x 2 năm; Tập huấn cho cán bộ y tế thôn: 01buổi/quý x 2 năm; Tập huấn cán bộ, hội viên các đoàn thể tham gia chương trình can thiệp gồm Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi, Đoàn TNCSHCM: 01buổi/ quý x 2 năm; Tập huấn cán bộ, hội viên các đoàn thể tham gia chương trình can thiệp gồm Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Người cao tuổi, Đoàn TNCSHCM: 01buổi/ quý x 2 năm; Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Người cao tuổi, Đoàn TNCSHCM của thị trấn chỉ đạo các chi, tổ Hội có lồng ghép nội dung Phòng chống SLGN vào sinh hoạt định kỳ: 01buổi/ quý x 2 năm; Nói chuyện về phòng, chống SLGN cho học sinh và phụ huynh học sinh vào các dịp khai giảng và bế giảng năm học tại các trường học trên địa bàn thị trấnRạng Đông: 02 buổi/năm x 2 năm; Họp Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trấn có lồng ghép nội dung triển khai và đánh giá kết quả hoạt động can thiệp phòng chống SLGN: 01 buổi/ quý x 2 năm; Thăm hộ gia đình các đối tượng nghiên cứu để truyền thông trực tiếp về nguyên nhân và giải pháp phòng, chống SLGN: 6 tháng/lần thăm x 2 năm. Nội dung truyền thông tập trung chủ yếu vào nguyên nhân, tác hại, đường lây truyền, chẩn đoán, điều trị, thuốc điều trị và các biện pháp phòng, chống SLGN. Tài liệu truyền thông gồm: áp phích, sách hướng dẫn chẩn đoán và điểu trị một số bệnh giun sán ở Việt Nam, tờ rơi do Viện Sốt rét- Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương biên soạn; 10 nguyên tắc chế biến thực phẩm an toàn, Tài liệu kiểm soát ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm, Cục An toàn thực phẩm biên soạn và sách mỏng Sán lá gan do Nguyễn Văn Đề chủ biên. Chương trình can thiệp đã tổ chức xét nghiệm phân tìm trứng SLGN cho tất cả đối tượng nghiên cứu và cứ 6 tháng 1 lần xét nghiệm lại cho người đã nhiễm SLGN và những người có triệu chứng lâm sàng bệnh SLGN hoặc vẫn còn thói quen ăn cá sống. Tất cả những người xét nghiệm phân có trứng SLGN đều được điều trị đặc hiệu bằng praziquantel liều 25mg/kg x 3 lần/ ngày x 1 ngày theo qui định của Bộ Y tế [4] và được theo dõi sau điều trị bởi cán bộ trạm y tế. Trạm y tế thị trấn tư vấn miễn phí cho người dân có

Xem tất cả 204 trang.

Ngày đăng: 28/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí