độc đạo, giúp Lâm Đồng mở rộng giao thương với các vùng kinh tế phía
Nam và khu vực Tây Nguyên.
Đó là tiền đề
quan trọng để
kinh tế
Lâm
Đồng phát triển đột phá trong những năm 2010 2015.
Sau hơn 6 năm thực hiện, chương trình nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao đã tạo ra bước phát triển đột phá đối với ngành nông nghiệp,
Có thể bạn quan tâm!
- Phát Triển Các Hình Thức Tổ Chức Sản Xuất Và Các Mối Liên Kết Trong Sản Xuất, Tiêu Thụ Sản Phẩm Nông Nghiệp Ứng Dụng Công Nghệ Cao
- Đầu Tư Cơ Sở Hạ Tầng Và Hỗ Trợ Đào Tào, Phát Triển Nguồn Nhân
- Yêu Cầu Mới Và Chủ Trương Của Đảng Bộ Tỉnh Lâm Đồng Về
- Đảng Bộ Tỉnh Lâm Đồng Chỉ Đạo Đẩy Mạnh Nghiệp Ứng Dụng Công Nghệ Cao (2010 2015)
- /6/2013) Và Quy Hoạch Chi Tiết Xây Dựng Khu Cnsh Và Nông Nghiệp Ứng Dụng Công Nghệ Cao Đà Lạt, Tỷ Lệ 1/500 (Quyết Định Số 2097/qđubnd,
- Đẩy Mạnh Chuyển Đổi Cơ Cấu Giống Và Ứng Dụng Kỹ Thuật Công Nghệ Hiện Đại Đối Với Các Loại Cây Trồng, Vật Nuôi Chủ Đạo
Xem toàn bộ 223 trang tài liệu này.
góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài và tác động tích cực đến công tác xóa đói, giảm nghèo, ổn định
chính trị
xã hội, v.v. Tuy vậy, nông nghiệp
tỉnh
Lâm Đồng phát triển
chưa bền vững; quá trình chuyển giao KHKT vào sản xuất nông nghiệp
còn nhiều hạn chế; diện tích
ứng dụng công nghệ
cao vẫn còn thấp so
với tiềm năng, lợi thế của địa phương. Các nông sản xuất khẩu chủ lực (cà phê), có lợi thế đặc biệt (dâu tằm) của địa phương và cây trồng giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong việc bảo đảm an ninh lương thực (lúa)
nhưng chưa được Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng đưa vào đối tượng áp dụng
chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Những thành tựu và hạn chế trong quá trình phát triển của ngành nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2004 2010 đã tạo ra những tiền đề cơ
bản
và đặt ra yêu cầu khách quan, đòi hỏi Đảng bộ
tỉnh Lâm Đồng cần
hoạch định chủ trương và chỉ đạo đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao trong những năm 2010 2015.
3.1.1.3. Yêu cầu từ việc đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới trong những năm 2010 2015
Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới, các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng. Quá trình hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi để ngành nông nghiệp nước ta nói chung và tỉnh Lâm Đồng nói riêng phát huy được lợi thế, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, thu hút nguồn vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, kỹ
năng quản lý nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Bên cạnh đó, tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường đối với các mặt hàng nông sản nước ngoài sẽ gây nên sức ép mãnh liệt về cạnh tranh đối với sản phẩm nông nghiệp trong nước ngay tại thị trường nội địa. Quá trình xuất khẩu nông sản Việt Nam còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, mở rộng thị trường, do những đòi hỏi rất khắt khe về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT),
an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (SPS) từ giới.
thị
trường thế
Cùng với đó, cơ cấu
tiêu dùng nông sản
trên thị trường
thế giới và
trong nước đã và đang thay đổi mạnh mẽ theo hướng cơ cấu bữa ăn hợp lý, cải thiện về chất lượng như giảm dần lương thực (lúa), tăng dần các thực phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao (rau, quả). Đặc biệt, người tiêu dùng trong nước đã bắt đầu ý thức trong việc ưu tiên lựa chọn hàng nông sản sạch, an toàn, chất lượng cao, đồng thời “tẩy chay” với sản phẩm nông nghiệp bẩn, chất lượng thấp, kém an toàn do lạm dụng quá mức thuốc tăng trưởng và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt và chăn nuôi.
Sức ép từ cạnh tranh trong quá trình hội nhập và nhu cầu tiêu dùng của
thị
trường đã đặt ra yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi Đảng bộ
tỉnh Lâm Đồng
phải tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp theo hướng nông nghiệp hàng hóa chuyên sâu, áp dụng công nghệ cao và sạch theo quy chuẩn an toàn thực phẩm của Việt Nam và quốc tế.
3.1.2. Chủ
trương đẩy mạnh
phát triển nông nghiệp
ứng dụng
công nghệ cao của Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng (2010 2015)
Nhằm nâng cao chất lượng trong phát triển, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế để đến năm 2020, “Lâm Đồng trở thành tỉnh phát triển của vùng Tây Nguyên” [22, tr.190], Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ IX (Nhiệm kỳ 2010 2015) xác định phương hướng: Khai thác
tối đa các nguồn lực, thu hút nguồn ngoại lực để đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện, đảm bảo cho nền kinh tế “phát triển nhanh và bền
vững” [22, tr.49]. Trong quá trình phát triển, cần nâng cao chất lượng tăng
trưởng và phát huy lợi thế so sánh trong từng vùng, từng ngành và từng lĩnh vực; gắn phát triển kinh tế với phát triển các lĩnh vực xã hội, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ tài nguyên môi trường; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Đối với ngành nông nghiệp, Đại hội chủ trương “tiếp tục phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng công nghệ cao” [22, tr.192]. Đại hội nhấn mạnh: phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là “chương trình trọng tâm” [22, tr.214] và là “khâu đột phá” [22, tr.52] phát triển KTXH của Tỉnh. Mục tiêu phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích, phát huy lợi thế và xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông nghiệp đặc thù, có giá trị kinh tế cao của tỉnh Lâm Đồng để mở rộng thị trường
tiêu thụ
sản phẩm, tạo sự
gắn kết giữa sản xuất nông nghiệp với sản
xuất công nghiệp và dịch vụ. Đến năm 2015, giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân đạt trên 100 triệu đồng/ha.
Trên cơ sở mục tiêu chung, Đại hội đã xác định mục tiêu cụ thể đối với từng cây trồng, vật nuôi áp dụng chương trình nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao, đồng thời xác định một số nhiệm vụ chủ yếu nhằm phát
triển ngành nông nghiệp nói chung và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng. Đến năm 2015, diện tích trồng rau đạt 40.000 41.000 ha, trong đó 20% diện tích sản xuất theo quy trình công nghệ cao; diện tích trồng hoa đạt 3.500 ha, sản lượng khoảng 1.500 triệu cành; chè chất lượng cao và chè cao sản đạt 4.200 ha; bò sữa đạt 8.000 con, bò thịt chất lượng cao chiếm
40% tổng đàn; khoảng 100 ha nuôi cá nước lạnh. Ngoài cây rau, hoa, chè, chăn nuôi bò sữa và cá nước lạnh, Đại hội đã bổ sung cây cà phê và cây lúa vào đối tượng áp dụng chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Để đạt được mục tiêu trên, Đại hội tiếp tục xác định các nhiệm vụ, giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trong đó nhấn mạnh “ứng dụng công nghệ cao trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp” [22, tr.198]. Mặt khác, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phải gắn với chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng tăng hiệu quả, trình độ công nghệ, xây dựng nông thôn mới hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trường.
Quán triệt tinh thần của Đại hội, Tỉnh ủy Lâm Đồng đã ban hành Nghị
quyết chuyên đề số
05NQ/TU, ngày 11/5/2011,
Về đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 20112015. Nghị quyết xác định, mục tiêu phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhằm “nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu; tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích; xây dựng và xác lập thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp đặc thù của Tỉnh; xây dựng và phát triển nền nông nghiệp Lâm Đồng theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, bền vững” [122, tr.4]. Phấn đấu đến năm 2015, toàn tỉnh có trên 10% diện tích đất canh tác nông nghiệp được sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao; tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp công nghệ cao chiếm trên 20% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của Tỉnh; lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đạt bình quân trên 40% so
với doanh thu; tỷ
trọng giá trị
nông sản xuất khẩu chiếm 74% tổng kim
ngạch xuất khẩu của Tỉnh.
Để đạt được mục tiêu trên, Nghị quyết xác định 4 nhiệm vụ chủ yếu:
Một là, chọn, tạo và nhân giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất,
chất lượng cao.
Để có giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất, chất lượng cao, phù
hợp với điều kiện sinh thái, Nghị quyết 05NQ/TU xác định phối hợp với
các cơ
quan nghiên cứu,
ứng dụng, các doanh nghiệp và cơ
sở sản xuất
giống, đặc biệt là cơ sở nuôi cấy mô để “chọn, tạo, di nhập các giống mới, phục tráng các giống địa phương có giá trị cao, phù hợp với điều kiện sinh thái” [122, tr.45].
Trên cơ sở đó, tiến hành nhân cấy, sản xuất giống theo quy trình công nghệ cao nhằm cung ứng nguồn giống cho nhu cầu sản xuất và xuất khẩu; đồng thời “ứng dụng bức xạ và kỹ thuật hạt nhân trong nông nghiệp” [122, tr.5] để tạo ra các giống mới đột biến giá trị cao đối với các loại cây trồng chủ lực của Tỉnh.
Hai là, lựa chọn công nghệ, thiết bị; xây dựng các quy trình và quy
chuẩn trong sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Về lựa chọn công nghệ, Nghị
quyết nhấn mạnh:
Căn cứ
điều kiện
sinh thái, từng đối tượng cây trồng, vật nuôi để “lựa chọn ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất một cách phù hợp” [122, tr.5]; đồng thời, xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn đối với các thiết bị công nghệ cao phù hợp với khả năng đầu tư của doanh nghiệp, người dân và điều kiện tự nhiên của
Tỉnh, trên cơ sở trường.
đáp
ứng yêu cầu sản xuất và giảm thiểu tác động môi
Cùng với lựa chọn công nghệ, cần xây dựng quy trình kỹ thuật sản
xuất, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch; xây dựng các tiêu chuẩn, quy
chuẩn của sản phẩm nông nghiệp
ứng dụng công nghệ
cao theo các tiêu
chuẩn quốc gia và quốc tế nhằm nước và xuất khẩu.
đáp
ứng yêu cầu của thị
trường trong
Ba là, tăng cường công tác nghiên cứu, tiến bộ KHCN;
ứng dụng và chuyển giao
Tập trung triển khai thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học và các dự án về chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi, nhất là loại giống có lợi
thế
vượt trội; kỹ
thuật canh tác theo hướng thâm canh, công nghệ
sạch,
công nghệ
cao; phòng trừ
dịch bệnh cây trồng, vật nuôi; công nghệ
bảo
quản sau thu hoạch và chế biến nông sản.
“Tăng cường công tác khuyến nông, chuyển giao kỹ
thuật trong sản
xuất, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch” [122, tr.5]; đầu tư nâng cấp và hiện đại hoá một số cơ sở sản xuất giống bằng phương pháp nuôi cấy mô
(invitro); đồng thời
tập huấn
cho doanh nghiệp và nông dân
về các quy
định, tiêu chuẩn sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, HACCAP.
Bốn là, xây dựng, nhân rộng các mô hình sản xuất và công trình điểm thuộc lĩnh vực phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Xây dựng và nhân rộng mô hình thuộc 4 lĩnh vực trong quy trình sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị gồm: tạo giống, quy trình canh tác, công nghệ sau thu hoạch, xúc tiến thương mại và mở rộng mối liên kết.
Trong lĩnh vực sản xuất giống: Tập trung xây dựng mô hình doanh nghiệp sản xuất giống bằng công nghệ nuôi cấy mô đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn của Việt Nam và quốc tế.
Đối với quy trình canh tác: Thu hút các doanh nghiệp đủ năng lực đầu
tư để
nhân rộng mô hình nuôi cá nước lạnh; hỗ
trợ
doanh nghiệp và hộ
nông dân xây dựng mô hình điểm và nhân rộng mô hình nghệ cao trong các vùng quy hoạch.
ứng dụng công
Đối với lĩnh vực dịch vụ: “Xây dựng, phát triển các loại hình cung ứng
dịch vụ” [122, tr.6] cao.
phục vụ
sản xuất nông nghiệp
ứng dụng công nghệ
Về mở rộng mối liên kết: Khuyến khích và có cơ chế, chính sách tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ
nông dân
và các cơ
sở nghiên cứu,
chuyển giao KHCN liên kết với nhau, đồng thời các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị.
xây dựng và nhân rộng
Cùng với xây dựng các mô hình trong chuỗi sản xuất, hình thành 3 5 mô hình doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được chứng nhận tiêu chuẩn theo các quy định của Việt Nam và quốc tế.
Về công trình điểm: Xây dựng khu CNSH và nông nghiệp hiện đại Đà
Lạt, Khu tập trung thu hút đầu tư
sản xuất nông nghiệp
ứng dụng công
nghệ cao tại huyện Lạc Dương nhằm “tạo bước đột phá trong nghiên cứu,
ứng dụng và thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp nghệ cao trên địa bàn tỉnh [122, tr.6].
ứng dụng công
Cùng với 4 nhiệm vụ, Nghị quyết đã đề ra 7 giải pháp chủ yếu gồm:
Thứ nhất,
tiếp tục quy hoạch và thực hiện tốt công
tác quản lý quy
hoạch phát triển vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối với các loại cây trồng, vật nuôi và nuôi trồng thủy sản;
Tiếp tục quy hoạch và mở rộng quy mô diện tích các vùng sản xuất
sản xuất rau, hoa, vùng sản xuất chè, vùng sản xuất cà phê, vùng lúa ứng dụng công nghệ cao và vùng nuôi cá nước lạnh ở những địa phương có điều
kiện phù hợp nhằm “tạo ra các sản phẩm có giá cao” [122, tr.7].
trị và lợi thế cạnh tranh
Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động [122, tr.7];
Tiếp tục tổ
chức tuyên truyền,
giáo dục
trong hệ
thống chính trị và
nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về vị trí và tầm quan trọng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói chung và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng. Mở rộng mạng lưới thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu, tham gia hội chợ, triển lãm về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đồng thời tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông
tin đại chúng về các thành tựu nghiên cứu, ứng dụng, các mô hình và các sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao để người dân tham khảo, học tập và vận dụng.
Cùng với công tác tuyên truyền, tăng cường vận động nông dân thực
hiện chương trình nông nghiệp
ứng dụng công nghệ
cao. Tập trung vận
động người nông dân tham gia các chương trình, dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, tuân thủ các quy hoạch phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đồng thời, kết hợp công tác vận động với công tác chỉ đạo sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao.
Thứ
ba,
đẩy mạnh thu hút đầu tư, đa dạng hóa nguồn vốn cho phát
triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao [122, tr.8].
Về thu hút đầu tư, Nghị quyết xác định: Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, công khai, minh bạch để thu hút các nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói chung và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng. Tích cực thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án trong lĩnh
vực dịch vụ
nông nghiệp và tư
vấn, nghiên cứu
ứng dụng
KHCN trong
nông nghiệp; khuyến khích việc phát triển các loại hình tổ chức gắn nghiên cứu với sản xuất và dịch vụ. Khuyến khích và tạo điều kiện để nông dân
mạnh dạn đầu tư ứng dụng công nghệ
cao vào phát triển sản xuất
nông
nghiệp; phát triển các loại hình trang trại kết hợp sản xuất với kinh doanh dịch vụ.
Nhằm huy động nguồn vốn đầu tư cho phát phát triển nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao, Nghị quyết xác định, cần đa dạng hóa nguồn vốn
đầu tư. Ngoài nguồn vốn đầu tư
từ các doanh nghiệp, hộ
nông dân, cần
huy động các nguồn vốn từ
ngân sách nhà nước, từ
dự án đầu tư
trong
nước và các dự án ODA. Đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, cần huy động và sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích các nguồn kinh phí ngân