Yêu Cầu Từ Việc Đáp Ứng Nhu Cầu Của Thị Trường Trong Nước Và Thế Giới Trong Những Năm 2010 ­ 2015


độc đạo, giúp Lâm Đồng mở rộng giao thương với các vùng kinh tế phía

Nam và khu vực Tây Nguyên.

Đó là tiền đề

quan trọng để

kinh tế

Lâm

Đồng phát triển đột phá trong những năm 2010 ­ 2015.

Sau hơn 6 năm thực hiện, chương trình nông nghiệp ứng dụng công

nghệ cao đã tạo ra bước phát triển đột phá đối với ngành nông nghiệp,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 223 trang tài liệu này.

góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước

ngoài và tác động tích cực đến công tác xóa đói, giảm nghèo, ổn định

Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao từ năm 2004 đến năm 2015 - 13

chính trị

­ xã hội, v.v. Tuy vậy, nông nghiệp

tỉnh

Lâm Đồng phát triển

chưa bền vững; quá trình chuyển giao KH­KT vào sản xuất nông nghiệp

còn nhiều hạn chế; diện tích

ứng dụng công nghệ

cao vẫn còn thấp so

với tiềm năng, lợi thế của địa phương. Các nông sản xuất khẩu chủ lực (cà phê), có lợi thế đặc biệt (dâu tằm) của địa phương và cây trồng giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong việc bảo đảm an ninh lương thực (lúa)

nhưng chưa được Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng đưa vào đối tượng áp dụng

chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Những thành tựu và hạn chế trong quá trình phát triển của ngành nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2004 ­ 2010 đã tạo ra những tiền đề cơ

bản

và đặt ra yêu cầu khách quan, đòi hỏi Đảng bộ

tỉnh Lâm Đồng cần

hoạch định chủ trương và chỉ đạo đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao trong những năm 2010 ­ 2015.

3.1.1.3. Yêu cầu từ việc đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới trong những năm 2010 ­ 2015

Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới, các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng. Quá trình hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi để ngành nông nghiệp nước ta nói chung và tỉnh Lâm Đồng nói riêng phát huy được lợi thế, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, thu hút nguồn vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, kỹ


năng quản lý nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Bên cạnh đó, tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường đối với các mặt hàng nông sản nước ngoài sẽ gây nên sức ép mãnh liệt về cạnh tranh đối với sản phẩm nông nghiệp trong nước ngay tại thị trường nội địa. Quá trình xuất khẩu nông sản Việt Nam còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, mở rộng thị trường, do những đòi hỏi rất khắt khe về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT),

an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (SPS) từ giới.

thị

trường thế

Cùng với đó, cơ cấu

tiêu dùng nông sản

trên thị trường

thế giới và

trong nước đã và đang thay đổi mạnh mẽ theo hướng cơ cấu bữa ăn hợp lý, cải thiện về chất lượng như giảm dần lương thực (lúa), tăng dần các thực phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao (rau, quả). Đặc biệt, người tiêu dùng trong nước đã bắt đầu ý thức trong việc ưu tiên lựa chọn hàng nông sản sạch, an toàn, chất lượng cao, đồng thời “tẩy chay” với sản phẩm nông nghiệp bẩn, chất lượng thấp, kém an toàn do lạm dụng quá mức thuốc tăng trưởng và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt và chăn nuôi.

Sức ép từ cạnh tranh trong quá trình hội nhập và nhu cầu tiêu dùng của

thị

trường đã đặt ra yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi Đảng bộ

tỉnh Lâm Đồng

phải tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp theo hướng nông nghiệp hàng hóa chuyên sâu, áp dụng công nghệ cao và sạch theo quy chuẩn an toàn thực phẩm của Việt Nam và quốc tế.

3.1.2. Chủ

trương đẩy mạnh

phát triển nông nghiệp

ứng dụng

công nghệ cao của Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng (2010 ­ 2015)

Nhằm nâng cao chất lượng trong phát triển, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế để đến năm 2020, “Lâm Đồng trở thành tỉnh phát triển của vùng Tây Nguyên” [22, tr.190], Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ IX (Nhiệm kỳ 2010 ­ 2015) xác định phương hướng: Khai thác


tối đa các nguồn lực, thu hút nguồn ngoại lực để đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện, đảm bảo cho nền kinh tế “phát triển nhanh và bền

vững” [22, tr.49]. Trong quá trình phát triển, cần nâng cao chất lượng tăng

trưởng và phát huy lợi thế so sánh trong từng vùng, từng ngành và từng lĩnh vực; gắn phát triển kinh tế với phát triển các lĩnh vực xã hội, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ tài nguyên môi trường; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng ­ an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Đối với ngành nông nghiệp, Đại hội chủ trương “tiếp tục phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng công nghệ cao” [22, tr.192]. Đại hội nhấn mạnh: phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là “chương trình trọng tâm” [22, tr.214] và là “khâu đột phá” [22, tr.52] phát triển KT­XH của Tỉnh. Mục tiêu phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích, phát huy lợi thế và xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông nghiệp đặc thù, có giá trị kinh tế cao của tỉnh Lâm Đồng để mở rộng thị trường

tiêu thụ

sản phẩm, tạo sự

gắn kết giữa sản xuất nông nghiệp với sản

xuất công nghiệp và dịch vụ. Đến năm 2015, giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân đạt trên 100 triệu đồng/ha.

Trên cơ sở mục tiêu chung, Đại hội đã xác định mục tiêu cụ thể đối với từng cây trồng, vật nuôi áp dụng chương trình nông nghiệp ứng dụng

công nghệ cao, đồng thời xác định một số nhiệm vụ chủ yếu nhằm phát

triển ngành nông nghiệp nói chung và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng. Đến năm 2015, diện tích trồng rau đạt 40.000 ­ 41.000 ha, trong đó 20% diện tích sản xuất theo quy trình công nghệ cao; diện tích trồng hoa đạt 3.500 ha, sản lượng khoảng 1.500 triệu cành; chè chất lượng cao và chè cao sản đạt 4.200 ha; bò sữa đạt 8.000 con, bò thịt chất lượng cao chiếm


40% tổng đàn; khoảng 100 ha nuôi cá nước lạnh. Ngoài cây rau, hoa, chè, chăn nuôi bò sữa và cá nước lạnh, Đại hội đã bổ sung cây cà phê và cây lúa vào đối tượng áp dụng chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Để đạt được mục tiêu trên, Đại hội tiếp tục xác định các nhiệm vụ, giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trong đó nhấn mạnh “ứng dụng công nghệ cao trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp” [22, tr.198]. Mặt khác, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phải gắn với chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng tăng hiệu quả, trình độ công nghệ, xây dựng nông thôn mới hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trường.

Quán triệt tinh thần của Đại hội, Tỉnh ủy Lâm Đồng đã ban hành Nghị

quyết chuyên đề số

05­NQ/TU, ngày 11/5/2011,

Về đẩy mạnh phát triển

nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2011­2015. Nghị quyết xác định, mục tiêu phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhằm “nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu; tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích; xây dựng và xác lập thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp đặc thù của Tỉnh; xây dựng và phát triển nền nông nghiệp Lâm Đồng theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, bền vững” [122, tr.4]. Phấn đấu đến năm 2015, toàn tỉnh có trên 10% diện tích đất canh tác nông nghiệp được sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao; tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp công nghệ cao chiếm trên 20% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của Tỉnh; lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đạt bình quân trên 40% so

với doanh thu; tỷ

trọng giá trị

nông sản xuất khẩu chiếm 74% tổng kim

ngạch xuất khẩu của Tỉnh.


Để đạt được mục tiêu trên, Nghị quyết xác định 4 nhiệm vụ chủ yếu:

Một là, chọn, tạo và nhân giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất,

chất lượng cao.

Để có giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất, chất lượng cao, phù

hợp với điều kiện sinh thái, Nghị quyết 05­NQ/TU xác định phối hợp với

các cơ

quan nghiên cứu,

ứng dụng, các doanh nghiệp và cơ

sở sản xuất

giống, đặc biệt là cơ sở nuôi cấy mô để “chọn, tạo, di nhập các giống mới, phục tráng các giống địa phương có giá trị cao, phù hợp với điều kiện sinh thái” [122, tr.4­5].

Trên cơ sở đó, tiến hành nhân cấy, sản xuất giống theo quy trình công nghệ cao nhằm cung ứng nguồn giống cho nhu cầu sản xuất và xuất khẩu; đồng thời “ứng dụng bức xạ và kỹ thuật hạt nhân trong nông nghiệp” [122, tr.5] để tạo ra các giống mới đột biến giá trị cao đối với các loại cây trồng chủ lực của Tỉnh.

Hai là, lựa chọn công nghệ, thiết bị; xây dựng các quy trình và quy

chuẩn trong sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Về lựa chọn công nghệ, Nghị

quyết nhấn mạnh:

Căn cứ

điều kiện

sinh thái, từng đối tượng cây trồng, vật nuôi để “lựa chọn ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất một cách phù hợp” [122, tr.5]; đồng thời, xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn đối với các thiết bị công nghệ cao phù hợp với khả năng đầu tư của doanh nghiệp, người dân và điều kiện tự nhiên của

Tỉnh, trên cơ sở trường.

đáp

ứng yêu cầu sản xuất và giảm thiểu tác động môi

Cùng với lựa chọn công nghệ, cần xây dựng quy trình kỹ thuật sản

xuất, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch; xây dựng các tiêu chuẩn, quy

chuẩn của sản phẩm nông nghiệp

ứng dụng công nghệ

cao theo các tiêu


chuẩn quốc gia và quốc tế nhằm nước và xuất khẩu.

đáp

ứng yêu cầu của thị

trường trong

Ba là, tăng cường công tác nghiên cứu, tiến bộ KH­CN;

ứng dụng và chuyển giao

Tập trung triển khai thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học và các dự án về chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi, nhất là loại giống có lợi

thế

vượt trội; kỹ

thuật canh tác theo hướng thâm canh, công nghệ

sạch,

công nghệ

cao; phòng trừ

dịch bệnh cây trồng, vật nuôi; công nghệ

bảo

quản sau thu hoạch và chế biến nông sản.

“Tăng cường công tác khuyến nông, chuyển giao kỹ


thuật trong sản

xuất, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch” [122, tr.5]; đầu tư nâng cấp và hiện đại hoá một số cơ sở sản xuất giống bằng phương pháp nuôi cấy mô

(invitro); đồng thời

tập huấn

cho doanh nghiệp và nông dân

về các quy

định, tiêu chuẩn sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, HACCAP.

Bốn là, xây dựng, nhân rộng các mô hình sản xuất và công trình điểm thuộc lĩnh vực phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Xây dựng và nhân rộng mô hình thuộc 4 lĩnh vực trong quy trình sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị gồm: tạo giống, quy trình canh tác, công nghệ sau thu hoạch, xúc tiến thương mại và mở rộng mối liên kết.

Trong lĩnh vực sản xuất giống: Tập trung xây dựng mô hình doanh nghiệp sản xuất giống bằng công nghệ nuôi cấy mô đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn của Việt Nam và quốc tế.

Đối với quy trình canh tác: Thu hút các doanh nghiệp đủ năng lực đầu

tư để

nhân rộng mô hình nuôi cá nước lạnh; hỗ

trợ

doanh nghiệp và hộ

nông dân xây dựng mô hình điểm và nhân rộng mô hình nghệ cao trong các vùng quy hoạch.

ứng dụng công

Đối với lĩnh vực dịch vụ: “Xây dựng, phát triển các loại hình cung ứng

dịch vụ” [122, tr.6] cao.

phục vụ

sản xuất nông nghiệp

ứng dụng công nghệ


Về mở rộng mối liên kết: Khuyến khích và có cơ chế, chính sách tạo

điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ

nông dân

và các cơ

sở nghiên cứu,

chuyển giao KH­CN liên kết với nhau, đồng thời các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị.

xây dựng và nhân rộng

Cùng với xây dựng các mô hình trong chuỗi sản xuất, hình thành 3 ­ 5 mô hình doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được chứng nhận tiêu chuẩn theo các quy định của Việt Nam và quốc tế.

Về công trình điểm: Xây dựng khu CNSH và nông nghiệp hiện đại Đà

Lạt, Khu tập trung thu hút đầu tư

sản xuất nông nghiệp

ứng dụng công

nghệ cao tại huyện Lạc Dương nhằm “tạo bước đột phá trong nghiên cứu,

ứng dụng và thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp nghệ cao trên địa bàn tỉnh [122, tr.6].

ứng dụng công

Cùng với 4 nhiệm vụ, Nghị quyết đã đề ra 7 giải pháp chủ yếu gồm:

Thứ nhất,

tiếp tục quy hoạch và thực hiện tốt công

tác quản lý quy

hoạch phát triển vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối với các loại cây trồng, vật nuôi và nuôi trồng thủy sản;

Tiếp tục quy hoạch và mở rộng quy mô diện tích các vùng sản xuất

sản xuất rau, hoa, vùng sản xuất chè, vùng sản xuất cà phê, vùng lúa ứng dụng công nghệ cao và vùng nuôi cá nước lạnh ở những địa phương có điều

kiện phù hợp nhằm “tạo ra các sản phẩm có giá cao” [122, tr.7].

trị và lợi thế cạnh tranh

Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động [122, tr.7];

Tiếp tục tổ

chức tuyên truyền,

giáo dục

trong hệ

thống chính trị và

nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về vị trí và tầm quan trọng phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói chung và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng. Mở rộng mạng lưới thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu, tham gia hội chợ, triển lãm về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đồng thời tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông


tin đại chúng về các thành tựu nghiên cứu, ứng dụng, các mô hình và các sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao để người dân tham khảo, học tập và vận dụng.

Cùng với công tác tuyên truyền, tăng cường vận động nông dân thực

hiện chương trình nông nghiệp

ứng dụng công nghệ

cao. Tập trung vận

động người nông dân tham gia các chương trình, dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, tuân thủ các quy hoạch phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đồng thời, kết hợp công tác vận động với công tác chỉ đạo sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao.

Thứ

ba,

đẩy mạnh thu hút đầu tư, đa dạng hóa nguồn vốn cho phát

triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao [122, tr.8].

Về thu hút đầu tư, Nghị quyết xác định: Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, công khai, minh bạch để thu hút các nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói chung và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nói riêng. Tích cực thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án trong lĩnh

vực dịch vụ

nông nghiệp và tư

vấn, nghiên cứu

ứng dụng

KH­CN trong

nông nghiệp; khuyến khích việc phát triển các loại hình tổ chức gắn nghiên cứu với sản xuất và dịch vụ. Khuyến khích và tạo điều kiện để nông dân

mạnh dạn đầu tư ứng dụng công nghệ

cao vào phát triển sản xuất

nông

nghiệp; phát triển các loại hình trang trại kết hợp sản xuất với kinh doanh dịch vụ.

Nhằm huy động nguồn vốn đầu tư cho phát phát triển nông nghiệp

ứng dụng công nghệ cao, Nghị quyết xác định, cần đa dạng hóa nguồn vốn

đầu tư. Ngoài nguồn vốn đầu tư

từ các doanh nghiệp, hộ

nông dân, cần

huy động các nguồn vốn từ

ngân sách nhà nước, từ

dự án đầu tư

trong

nước và các dự án ODA. Đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, cần huy động và sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích các nguồn kinh phí ngân

Xem tất cả 223 trang.

Ngày đăng: 14/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí