ra là việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự có bắt buộc cũng phải thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực không, hay chỉ cần một bên thể hiện ý chí đơn phương của mình. Trong thực tế vấn đề này được vận dụng rất khác nhau: Có Tòa thì hiểu rằng, nếu việc đại diện theo ủy quyền được thể hiện dưới hình thức hợp đồng ủy quyền có đầy đủ chữ ký của bên ủy quyền và bên đại diện theo ủy quyền và được công chứng, chứng thực thì khi chấm dứt cũng buộc phải có đầy đủ chữ ký của hai bên và phải được công chứng, chứng thực, có Tòa thì chấp nhận chỉ cần một bên ủy quyền hoặc bên đại diện theo ủy quyền nộp văn bản từ chối việc đại diện theo ủy quyền là được, mà không cần kiểm tra xem chữ ký trong đó có phải của họ không.
3.2. Một số kiến nghị về đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự
3.2.1. Kiến nghị về lập pháp
3.2.1.1. Sửa đổi quy định về quyền ký đơn khởi kiện của người đại diện theo ủy quyền
Về lý luận, đơn khởi kiện là cơ sở pháp lý để Tòa án xem xét thụ lý vụ án dân sự; cá nhân, cơ quan tổ chức có thể ủy quyền cho người đại diện khởi kiện để bảo vệ lợi ích của mình. Khi xác lập quan hệ ủy quyền, người được ủy quyền sẽ thay mặt và đại diện cho người ủy quyền thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong phạm vi và nội dung ủy quyền, đồng thời chịu trách nhiệm về công việc ủy quyền. Vì vậy, không thể cho rằng nếu người đại diện theo ủy quyền ký vào đơn khởi kiện là không thể hiện ý chí và nguyện vọng của người khởi kiện. Bên cạnh đó, về nội dung, điểm 1 khoản 2 Điều 164 không cấm người đại diện ủy quyền đứng tên trong đơn khởi kiện [5, tr.57]. Nếu theo hướng dẫn của TANDTC, đơn khởi kiện trong trường hợp này sẽ bị trả lại; nếu người khởi kiện là người Việt nam định cư ở nước ngoài thì phải làm lại đơn khởi kiện (có Tòa án còn buộc phải làm lại văn bản ủy quyền), rồi phải hợp pháp hóa lãnh sự mới được coi là hợp pháp, gây tốn kém không cần
thiết, có thể gây ảnh hưởng đến quyền lợi của họ khi hết thời hiệu khởi kiện.
Pháp luật tố tụng trước đây cho phép người đại diện theo ủy quyền của cá nhân được quyền ký đơn khởi kiện như quy định tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế v.v…Tuy nhiên, BLTTDS 2004 và các văn bản hướng dẫn của TANDTC đã bỏ quy định này.
Theo ý kiến của tác giả, việc không chấp nhận người đại diện theo ủy quyền của đương sự ký đơn khởi kiện là gây khó khăn cho đương sự, bởi vì ý chí của người khởi kiện vẫn được thể hiện đầy đủ nếu người đại diện theo ủy quyền ký vào đơn khởi kiện, kèm theo đơn khởi kiện là văn bản ủy quyền được công chứng, chứng thực hợp pháp có nội dung ủy quyền về việc ký đơn khởi kiện. Việc chứng nhận của UBND cấp xã trong trường hợp phải có người làm chứng (nếu người khởi kiện không ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện được) quy định tại Điều 164 BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 không khác gì về bản chất so với chứng nhận của UBND cấp xã vào văn bản ủy quyền có nội dung ủy quyền ký đơn khởi kiện, bởi vì ý chí của người khởi kiện đã được thể hiện rõ trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Mặt khác, trong thực tiễn tham gia tố tụng tại Tòa án cho thấy, trong trường hợp uỷ quyền toàn bộ thì mặc dù người ủy quyền là người ký đơn khởi kiện ban đầu nhưng người đại diện theo ủy quyền vẫn có thể thay đổi, bổ sung, rút bớt một phần nội dung yêu cầu khởi kiện ban đầu tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại Điều 217 BLTTDS; hoặc thỏa thuận với các đương sự khác ngay tại phiên tòa theo quy định tại Điều 217 BLTTDS mà không có ý kiến bằng văn bản của người ủy quyền, nhưng vẫn được Hội đồng xét xử chấp nhận. Rõ ràng quy định người khởi kiện trực tiếp ký vào đơn khởi kiện, trong trường hợp đặc biệt phải có người làm chứng trước mặt người có thẩm quyền chứng thực UBND cấp xã chỉ là hình thức.
Từ phân tích trên, tác giả đưa ra kiến nghị là:
Tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi Điều 164 BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 theo hướng cho phép người đại diện theo ủy quyền được quyền ký đơn khởi kiện, kèm theo đơn khởi kiện là văn bản ủy quyền hợp lệ có thể hiện nội dung ủy quyền ký đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Quy Định Về Thủ Tục Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự
- Thực Tiễn Thực Hiện Các Quy Định Về Đại Diện Theo Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự
- Về Nội Dung Và Phạm Vi Đại Diện Theo Ủy Quyền Trong Tố Tụng Dân Sự
- Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự Việt Nam - 12
- Đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
3.2.1.2. Sửa đổi quy định về hình thức ủy quyền trong tố tụng dân sự
Như đã viện dẫn, việc đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự được thực hiện giống như đại diện theo ủy quyền trong dân sự. Khoản 2 Điều 142 BLDS quy định hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải lập thành văn bản; còn Điều 586 BLDS quy định về hình thức hợp đồng ủy quyền phải lập thành văn bản, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định, thì hợp đồng ủy quyền phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Các quy định này chưa rõ ủy quyền phải qua công chứng, chứng thực trong những trường hợp nào, điều này liên quan đến tính hợp pháp của việc đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự tại Tòa án. TANDTC cũng đã có hướng dẫn tại Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP về hình thức văn bản ủy quyền trong tố tụng dân sự phải được công chứng, chứng thực hợp pháp, tuy nhiên đây là những hướng dẫn về việc ủy quyền kháng cáo và tham gia tố tụng dân sự tại cấp phúc thẩm mà thôi.
Hình thức đại diện theo ủy quyền liên quan đến các loại ủy quyền như đã phân tích ở tiểu mục 3.1.2 luận văn này, bao gồm: Ủy quyền một lần, ủy quyền riêng biệt và thẩm quyền đại diện chung. Công văn số 227/2004/KHXX ngày 30/12/2004 của TANDTC chỉ hướng dẫn trong trường hợp ủy quyền tham gia tố tụng của Phó Chủ tịch UBND liên quan đến lĩnh vực được Chủ tịch UBND phân công phụ trách (trong trường hợp này văn bản
ủy quyền không cần phải qua công chứng, chứng thực), không thể áp dụng cho mọi trường hợp ủy quyền thuộc các loại ủy quyền ở trên.
Do đó tác giả đưa ra kiến nghị là, song song với việc cần bổ sung các quy định của pháp luật nội dung về hình thức ủy quyền, loại ủy quyền, thì TANDTC cần sớm có văn bản hướng dẫn giải thích về: Hình thức của loại ủy quyền mang tính chuyên biệt (không riêng đối với ủy quyền của Chủ tịch
UBND); văn bản ủy quyền tham gia tố tụng bắt buôc phải công chứng, chứng
thực trong moi
trường hơp
(kể cả văn bản ủy quyền của pháp nhân) hay
không; có chấp nhận hay không hình thức ủy quyền tham gia tố tụng của cơ quan, tổ chức dưới dạng “Giấy giới thiệu”.
3.2.1.3. Sửa đổi quy định về nội dung và phạm vi đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự
Trên thực tế có 2 dạng thỏa thuận trong văn bản ủy quyền:
Dạng thứ nhất là liệt kê rõ ràng từng nội dung ủy quyền trong văn bản, người đại diện theo ủy quyền chỉ được làm những gì được liệt kê trong văn bản ủy quyền.
Dạng thứ hai là ủy quyền bao quát toàn bộ, căn cứ pháp lý là pháp luật không quy định cụ thể trong văn bản ủy quyền phải liệt kê chi li từng công việc cụ thể. Một khi trong văn bản ủy quyền ghi rõ người đại diện theo ủy quyền được nhân danh và toàn quyền quyết định mọi việc thì họ có các quyền và nghĩa vụ tố tụng như chính đương sự là người ủy quyền.
Tại hội thảo góp ý sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự do Ủy ban Tư pháp Quốc hội tổ chức cuối năm 2010, nhiều đại biểu cho rằng cần phải quy định rành rọt, cụ thể về vấn đề này. Viện trưởng VKSND TP Đà Nẵng Trần Thanh Vân nói: “Hậu quả của việc hiểu khác nhau là đã có nhiều bản án, quyết định của tòa cấp dưới bị tòa cấp trên hủy, sửa với lý do giấy ủy quyền không ghi rõ từng nội dung ủy quyền. Tôi nghĩ đây tưởng là chuyện nhỏ nhưng không nhỏ vì nó là một căn cứ để tòa cấp trên hủy án của tòa cấp dưới”.
Vì vậy, để thống nhất áp dụng trong cả nước, tránh trường hợp mỗi nơi hiểu và áp dụng mỗi kiểu như hiện nay, tác giả kiến nghị là cần có quy điṇ h thâṭ rõ ràng, chi tiết về các vấn đề: Có cần phải liệt kê cụ thể từng nội dung ủy quyền trong văn bản ủy quyền hay không; Nếu tôn trọng nguyên tắc quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự thì khi các bên đã xác lập phạm vi đại diện theo ủy quyền là toàn bộ, thì Tòa án nên chấp nhận toàn bộ hay chỉ chấp nhận một số công việc mà người đại diện theo ủy quyền thực hiện có liên quan đến việc giải quyết vụ việc.
3.2.1.4. Sửa đổi quy định về đai
diên
theo ủy quyền để giải quyết phần
tài sản trong viêc
ly hôn, trong việc dân sự thuân
tình ly hôn, yêu cầu hủy việc
kết hôn trái pháp luật
Khoản 3 Điều 73 Bộ luật TTDS 2004 quy định “đối với việc ly hôn đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng” là chưa rõ ràng, có thể hiểu theo hai cách khác nhau: Thứ nhất là, nếu là vụ án ly hôn thì đương sự không được ủy quyền, dù là ủy quyền về phần tài sản. Còn nếu hiểu theo cách thứ hai là, đối với yêu cầu ly hôn trong vụ án ly hôn thì đương sự chỉ không được ủy quyền về phần xin ly hôn mà thôi, còn các vấn đề khác vẫn có thể ủy quyền. Vì vậy, để pháp luật được áp dụng một cách thống nhất, tác giả kiến nghị cần sớm có hướng dẫn, giải thích cụ thể về khoản 3 Điều 73 BLTTDS này. Bên cạnh đó, việc sớm sửa đổi, bổ sung các
quy định về đaị diên
theo ủy quyền trong viêc
dân sự thuận tình ly hôn, yêu
cầu hủy kết hôn trái pháp luật để hoàn thiện tính thống nhất giữa pháp luật nội dung với pháp luật hình thức về vấn đề nhân thân là hết sức cần thiết.
3.2.1.5. Sửa đổi quy định về thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của người đại diện theo ủy quyền của đương sự
Từ vướng mắc trong thực tiễn việc thực hiện quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ như đã phân tích tại ở trên, tác giả đưa ra
kiến nghị là bỏ quy định tại đoạn cuối của tiểu mục 2.1 mục 2 phần III Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất "Những quy định chung" của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Cụ thể là bỏ đoạn “Đơn hoặc văn bản yêu cầu phải ghi cụ thể các tên tài liệu, chứng cứ mà mình cần ghi chép, sao chụp”, vì nó không phù hợp thực tế.
Mặt khác, như đã trình bày, trong văn bản ủy quyền tham gia tố tụng dân sự tại Tòa án thì đương sự ít khi liệt kê cụ thể nội dung các công việc ủy quyền mà thường ủy quyền toàn bộ; đồng thời nếu khi đã ủy quyền cho luật sư thì đương sự cũng không nhờ một luật sư hoặc người khác làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Để có thể bảo vệ một cách tốt nhất quyền lợi hợp pháp của người ủy quyền, người đại diện theo ủy quyền ngoài quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, thì quyền được nghiên cứu hồ sơ vụ án là một quyền rất quan trọng. Tuy nhiên, chỉ có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mới được quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 64 BLTTDS, còn đương sự (và do đó người đại diện theo ủy quyền của đương sự) thì không có quyền này. Kiến nghị của tác giả là bổ sung thêm quyền được nghiên cứu hồ sơ vụ án vào điểm đ khoản 2 Điều 58 BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.
3.2.1.6. Sửa đổi quy định về chấm dứt đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự
Hướng dẫn của TANDTC quy định việc đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp; Điều 77 BLTTDS quy định việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự được thực hiện như việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền được quy định trong BLDS. Thế nhưng quy định trong BLDS tại các Điều 147, 588 và 589 không nêu rõ việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền có phải cần được
công chứng, chứng thực không. Nếu một hoặc cả hai bên ủy quyền, bên đại diện theo ủy quyền thể hiện ý chí chấm dứt việc đại diện theo ủy quyền bằng văn bản nhưng không được công chứng, chứng thực thì làm sao Tòa án có thể kiểm chứng tính xác thực của việc thể hiện ý chí của các bên trong văn bản này, và thực tế đã có Tòa không chấp nhận. Kiến nghị của tác giả là cần sớm có hướng dẫn bổ sung về vấn đề này, bảo đảm sự thống nhất giữa pháp luật nội dung và pháp luật hình thức.
3.2.1.7. Sửa đổi quy định tại Điều 75 BLTTDS
Điểm b khoản 1 Điều 75 BLTTDS quy định một người không được làm người đại diện theo pháp luật cho người khác “Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án”. Khoản 2 Điều 75 BLTTDS quy định các trường hợp không được làm người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự, áp dụng tương tự như quy định tại khoản 1 Điều 75 BLTTDS. Điều đó có thể được hiểu là, một người đang là đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự cho một đương sự thì không được làm người đại diện theo ủy quyền cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự này đối lập nhau.
Có hai trường hợp sau đây:
- Một người đang là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự thì có được làm người đại diện theo ủy quyền cho đương sự khác không nếu quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự này đối lập nhau.
- Một người đang là đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự cho một đương sự thì có được làm người đại diện theo pháp luật cho đương sự khác không nếu quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự này đối lập nhau. Câu trả lời chắc chắn là không, bởi vì một người không thể vừa nhân
danh và bảo vệ quyền lợi của đương sự này lại vừa có thể nhân danh và bảo vệ quyền lợi cho đương sự khác đối lập về lợi ích được. Rõ ràng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 75 BLTTDS nói trên là thừa không cần thiết.
Do đó kiến nghị của tác giả là, khoản 1 và khoản 2 Điều 75 BLTTDS chỉ cần gộp lại thành một điều khoản như sau:
1. Những người sau đây không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự:
a) Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện;
b) Nếu họ đang là người đại diện hợp pháp trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án”.
3.2.1.8. Sửa đổi quy định về việc đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng dân sự của hộ gia đình
Mặc dù không thấy quy định hộ gia đình là đương sự trong vụ án dân sự tại khoản 1 Điều 56 BLTTDS, nhưng hộ gia đình vẫn có thể tham gia tố tụng dân sự liên quan đến các tranh chấp tài sản có giá trị lớn của hộ gia đình như quyền sử dụng đất, nhà xưởng, nhà kho v.v...Theo quy định tại Điều 107 BLDS thì chủ hộ là người đại diện của hộ gia đình, có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện cho hộ gia đình. Như vậy, việc ủy quyền tham gia tố tụng dân sự của hộ gia đình do chủ hộ đại diện ký.
Tuy nhiên, Điều 109 BLDS lại quy định việc định đoạt các tài sản có giá trị lớn (ví dụ quyền sử dụng đất) của hộ gia đình phải được các thành viên từ 15 tuổi trở lên đồng ý, đối với các tài sản chung khác phải được đa số các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý. Như vậy, hai quy định tại Điều 107 và 109 BLDS này mâu thuẫn nhau, nó có thể làm vô hiệu văn bản ủy quyền tham gia tố