mọi giao dịch trong gia đình. Người đàn ông có toàn quyền sử dụng tài sản chung trong gia đình không cần phải có sự bằng lòng của người vợ trừ khi tài sản ấy là bất động sản là kỷ phần của người vợ miễn là dùng vào việc có ích lợi cho gia đình. Chính xuất phát từ hệ thống tư tưởng như vậy nên không có sự xuất hiện của đại diện của vợ cho chồng trong thời kỳ này.
1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến nay
- Giai đoạn đất nước ta trong thời kỳ cách mạngdân tộc dân chủ nhân dân (1945-1954)
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, để bảo vệ nhà nước non trẻ chủ trương xây dựng pháp luật để điều chỉnh mọi mặt xã hội được áp dụng. Năm 1946 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong lịch sử lập pháp nước ta. Tại đây Hiến pháp quy ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt. Đây chính là cơ sở pháp lý vô cùng quan trọng để xây dựng các chế độ về hôn nhân gia đình. Quan niệm về vai trò của người phụ nữ trong gia đình đã thay đổi, giờ khi lấy chồng họ không mất hết quyền lực như trước nữa mà họ có toàn năng lực thực hiện mọi hành vi dân sự mà không cần có sự cho phép của người chồng. "Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình" [2, Điều 5], "Người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mật hộ" [2, Điều 6]. Theo quy định này người vợ trong gia đình đã thay đổi hoàn toàn địa vị pháp lý của mình, họ không còn lệ thuộc hoàn toàn vào người chồng như trước đây nữa. Họ được bình đẳng trước pháp luật và vị trí ngang hàng với chồng mình trong các quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy trên phương diện pháp lý thì người vợ đã có những quyền lợi và nghĩa vụ cùng chồng mình quyết định những vấn đề quan trọng của gia đình liên quan đến tài sản chung, con chung. Trong sắc lệnh này chưa nhắc đến việc vợ chồng đại diện cho nhau nhưng thông qua các quy định về quyền của người phụ nữ để thấy được vị trí pháp lý của người phụ nữ trong mối quan hệ với người chồng.
Việc quy định đưa vai trò của người phụ nữ đã phá bỏ hoàn toàn luật lệ lạc hậu của chế hôn nhân và gia đình phong kiến, góp phần vào việc giải phóng phụ nữ, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
- Giai đoạn đất nước bị chia cắt, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam (1954-1975)
Trong tình hình đất nước tạm thời chia cắt, với hai nhiệm vụ chính trị khác nhau. Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng xã hội chủ nghĩa, là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước. Tuy đã có hai Sắc lệnh (Sắc lệnh số 97-SL và Sắc lệnh số 159-SL) góp phần xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến nhưng do ảnh hưởng nặng nề của chế độ hôn nhân này, nên trước yêu cầu thực tế về một đạo luật về hôn nhân và gia đình đáp ứng sự nghiệp giải phóng phụ nữ và xây dựng xã hội chủ nghĩa, dự luật hôn nhân và gia đình đã được Quốc hội thông qua ngày 29-12-1959. Đây là công cụ pháp lý hữu hiệu để xóa bỏ những tàn tích lạc hậu của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Trong bộ luật này vị trí pháp lý của người phụ nữ một lần nữa được khẳng định, không còn tư tưởng trọng nam khinh nữ, người vợ có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng tài sản có trước và sau khi cưới. Tại các quy định tại bộ luật này cho thấy người phụ nữ được tạo mọi điều kiện để được bình đẳng với người chồng trong mọi hoạt động của gia đình. Người phụ nữ ngày càng tự do hơn trong cả suy nghĩ và hành động cũng như vị thế xã hội. Đây chính là những điểm tiến bộ mà pháp luật xã hội chủ nghĩa mang lại cho người phụ nữ nhiều quyền năng và trách nhiệm hơn, giảm bớt áp lực cho người chồng trong mọi giao dịch của gia đình.
Cùng thời điểm này nhưng ở miền Nam lại áp dụng ba văn bản khác nhau đó là Luật gia đình ngày 02/01/1959 (luật số 1/59) dưới chế độ Ngô Đình Diệm quy định các vấn đề về "giá thú, tử hệ, chế độ phu phụ tài sản"... Sắc luật
số 15/64 ngày 23/7/1964 thay thế Luật gia đình ngày 02-01-1959 "quy định về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng". Bộ Dân luật ngày 20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu quy định rõ hơn về quan hệ vợ chồng nhưng đều thừa nhận quyền tự do lập hôn ước của vợ chồng và chế độ tài sản chung theo luật định chỉ được áp dụng khi vợ chồng không lập hôn ước. Như vậy đại diện giữa vợ và chồng cũng chưa được nhắc đến nhưng việc lập hôn ước cùng với những quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng kèm theo hôn ước cũng như việc vợ chồng xác định về chế độ tài sản chung đã thấy rõ được vai trò cũng như vị trí của người phụ nữ trong giai đoạn này. Tuy nhiên đây là các văn bản pháp luật phục vụ cho Nhà nước phản động, đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân tộc.
Tựu chung lại là cả ba bộ luật này đều bảo vệ chế độ gia trưởng, thể hiện sự bất bình đẳng của vợ chồng trong gia đình và như vậy việc đại diện giữa vợ và chồng không được thể hiện rõ nét.
Có thể bạn quan tâm!
- Đại diện giữa vợ và chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành - 2
- Bản Chất Và Các Đặc Điểm Pháp Lý Về Đại Diện Giữa Vợ Và Chồng
- Sơ Lược Lịch Sử Pháp Luật Việt Nam Về Quan Hệ Đại Diện Giữa Vợ Và Chồng
- Quyền Và Nghĩa Vụ Của Vợ Hoặc Chồng Với Tư Cách Là Người Đại Diện Cho Chồng Hoặc Vợ Của Mình Bị Mất Năng Lực Hành Vi Dân Sự
- Đại Diện Giữa Vợ Chồng Trong Trường Hợp Vợ Chồng Bị Hạn Chế Năng Lực Hành Vi Dân Sự
- Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Đại Diện Theo Ủy Quyền Giữa Vợ Và Chồng Và Thực Tiễn Áp Dụng
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
- Giai đoạn từ 1975 đến nay
Quan hệ đại diện của vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thống nhất đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật thống nhất cả hai miền Bắc - Nam. Vì thế Luật Hôn nhân và gia đình 1959 được đưa vào thực hiện thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Trong quá trình thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần xóa bỏ những lạc hậu của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, cải thiện được đáng kể vị trí vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Tuy nhiên tình hình kinh tế, xã hội đã có sự thay đổi lớn nên việc ra đời một đạo luật mới cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội là một đòi hỏi khách quan. Sau khi ban hành Hiến pháp năm 1980 quy định về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời dựa trên những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình mới xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên tại đây các quy định pháp luật còn mang tính khái quát, định hướng chưa cụ thể dẫn đến còn nhiều vướng mắc trong việc áp dụng giải quyết các tranh chấp từ quan hệ hôn nhân ngay từ việc xác định tài sản của vợ, chồng.... Chính vì vậy đại diện giữa vợ và chồng cũng chưa được nhắc tới trong văn bản pháp luật này. Các quy định để cụ thể hóa quyền lợi của người phụ nữ trong giai đoạn này đã được thể hiện trong luật tuy nhiên chưa thật sâu sắc.
Đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 lần đầu tiên quan hệ đại diện giữa vợ và chồng đã được nhắc đến tại Điều 24 của luật này. Điều này thể hiện tính kế thừa và phát triển của pháp luật về hôn nhân gia đình cũng như quan điểm thống nhất về giải phóng phụ nữ. Đến đây vị trí của người phụ trong xã hội đã được khẳng định. Việc đánh giá công sức của người phụ nữ trong các hoạt động xã hội cũng như trong gia đình đã được ghi nhận một cách thỏa đáng. Với vai trò không thể thiếu trong nhiều hoạt động xã hội, pháp luật xã hội chủ nghĩa đã thống nhất về tư tưởng trong hoạt động lập pháp về vấn đề này.
Tiếp theo đó là Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tại đây không giải thích thêm về đại diện giữa vợ và chồng nhưng đã làm rõ hơn những vấn đề liên quan đến các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của vợ và chồng tại Điều 4 của Nghị định này.
Đặc biệt, vấn đề này được quy định rõ hơn tại Khoản 1, Điều 62 Bộ luật Dân sự năm 2005 về việc đại diện theo pháp luật của một bên vợ chồng khi bên kia bị mất năng lực hành vi dân sự. Người đại diện theo pháp luật này phải đảm bảo có đủ điều kiện giám hộ.
Qua đó đã quy định quyền đại diện của vợ, chồng trong pháp luật dân sự và hôn nhân và gia đình rõ ràng, cụ thể hơn. Vợ chồng được đại diện cho nhau trong các giao dịch dân sự, dưới sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình và Luật Dân sự Việt Nam.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ QUAN HỆ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG Ở VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẬT GIỮA VỢ VÀ CHỒNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1.1. Đại diện giữa vợ chồng khi một bên vợ chồng bị mất năng lực hành vi dân sự
2.1.1.1. Điều kiện để xác định đại diện theo pháp luật giữa vợ và chồng một bên mất năng lực hành vi dân sự
Năng lực hành vi dân sự của một cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện những quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Đây chính là khả năng để cá nhân tiến hành các hành vi nhất định nhằm thực hiện năng lực pháp luật cũng như khả năng độc lập gánh chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình theo quy định: "Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự" [22, Điều 17]. Như vậy mỗi cá nhân có khả năng và tùy theo nhu cầu của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự để thỏa mãn một hay một số lợi ích nhất định và chịu trách nhiệm về các hành vi đó.
Mất năng lực hành vi dân sự là: "Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định" [22, Điều 22]. Như vậy không phải một người bị tâm thần hoặc không nhận thức được về hành vi của mình thì bị coi là mất năng lực hành vi dân sự mà phải thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau đây:
* Theo quy định trên thì khi một người do bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình có nghĩa là người này không thể có khả năng nhận biết những khái niệm, cũng như giao tiếp của một người bình thường. Họ không thể nhận thức đến tình trạng sức khỏe tâm thần liên quan đến bản thân cũng như các hoạt động xung quanh mình. Họ không thể nhận ra đâu là người thân quen, đâu là người lạ, đâu là điều có lợi, đâu là có hại ảnh hưởng đến bản thân mình. Tình trạng tâm thần của họ sẽ được cơ sở giám định có chuyên môn xác định và xác nhận. Đây chính là cơ sở pháp lý để xác định một người có năng lực hành vi dân sự hay không mặc dù bằng mắt thường thì bất cứ một người nào cũng nhận thấy việc mất hoặc hạn chế năng lực hành vi của người này. Như vậy, một người bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác như hoảng loạn, hôn mê, tâm thần phân liệt, mất trí nhớ… không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình là một trong những dấu hiệu để tuyên bố là mất năng lực hành vi.
* Một người bị bệnh tâm thần hay các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình sẽ không bị coi là mất năng lực hành vi dân sự khi người có quyền và lợi ích liên quan không đề nghị Tòa án tuyên bố là người mất năng lực hành vi dân sự. Trên thực tế ta thấy rằng không phải tự nhiên mà người thân trong gia đình của người mất năng lực hành vi dân sự lại đề nghị Tòa án tuyên bố tình trạng sức khỏe tâm thần của người thân trong gia đình họ. Thực tế cho thấy chỉ trong những điều kiện nhất định, hay xuất hiện những sự kiện pháp lý thì việc yêu cầu tòa án tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự mới được thực hiện. Việc đề nghị tòa án tuyên bố về tình trạng mất năng lực hành vi dân sự của người có quyền và lợi ích liên quan phải được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng đó là: có đơn yêu cầu trong đó ghi đầy đủ thông tin theo mẫu và đi kèm theo đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự phải có kết luận của cơ quan chuyên môn và các chứng cứ khác để chứng minh người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình [21, Khoản 2 Điều 319]. Việc yêu cầu tuyên bố một người là mất năng lực hành vi dân sự thường do các chủ thể là cá nhân đề nghị tòa án khi tham
gia các giao dịch hoặc thực hiện nghĩa vụ dân sự mà có liên quan đến người bị mất năng lực hành vi, có thể là người thân trong gia đình hoặc cá nhân khác có quyền và lợi ích liên quan. Cơ quan có thẩm quyền tuyên bố một người mất năng lực hành vi là tòa án. Tuy nhiên, trong điều luật không nhắc đến việc yêu cầu tòa án tuyên bố một người là mất năng lực hành vi dân sự của các cơ quan tổ chức xã hội? Đây chính là vấn đề cần xem xét bởi trên thực tế thường thì việc tuyên bố sẽ là không cần thiết nếu như mọi hoạt động của người bị mất năng lực hành vi dân sự được kiểm soát bởi gia đình hoặc các tổ chức xã hội. Nhưng sẽ hết sức cần thiết khi người mất năng lực hành vi dân sự không kiểm soát được hành vi gây ra hậu quả ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của chính gia đình người đó cũng như cộng đồng nói chung. Hơn nữa việc không kiểm soát được hành vi của người mất năng lực hành vi và thêm việc thiếu hiểu biết của những người trong gia đình của người này còn có khả năng dẫn đến việc người mất năng lực hành vi không tự bảo vệ được chính bản thân họ, dễ bị lạm dụng tổn thương đến sức khỏe thể chất, sinh sản. Như vậy yếu tố tiếp theo để tuyên bố một người là mất năng lực hành vi là có đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là mất năng lực hành vi dân sự của người có quyền, lợi ích liên quan.
* Yếu tố tiếp theo để việc xác định năng lực hành vi của một người là được tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi bằng một quyết định của tòa án. Quyết định này của tòa án cũng tuân theo một trình tự nhất định được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Trên cơ sở yêu cầu và những minh chứng kèm theo đơn chứng minh về tình trạng sức khỏe tâm thần của người này mà Tòa án có thể tuyên bố một người là mất năng lực hành vi hoặc không mất năng lực hành vi. Trong trường hợp cần thiết, nếu thiếu chứng cứ để tuyên bố một người mất năng lực hành vi và theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan Tòa án trưng cầu cơ quan giám định để xác định tình trạng mất năng lực hành vi của một người. Khi đủ các căn cứ và trình tự theo Luật định thì Tòa án sẽ tuyên bố một người là mất năng lực hành vi dân sự. Tòa án ở đây được hiểu là tòa án nơi cư trú của người bị mất năng lực hành vi, bởi đây sẽ là
nơi thuận lợi nhất cho cả vợ và chồng trong các giao dịch dân sự cũng như là việc hủy bỏ tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất năng lực hành vi khi những yếu tố gây nên tình trạng mất năng lực hành vi dân sự của người này không còn tồn tại. Tuy nhiên, trong quy định pháp luật ta không thấy quy định về căn cứ để hủy quyết định tuyên một người là mất năng lực hành vi. Điều này khẳng định tính nhân văn của pháp luật Việt Nam. Việc tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự cần thiết một sự cẩn trọng, vì đây là một tuyên bố đưa thân phận của một người không còn là một con người đúng nghĩa nữa nên Tòa án phải căn cứ vào những kết quả giám định về chuyên môn, chuyên ngành chứ không thể tùy tiện tuyên bố theo yêu cầu từ phía những người có quyền lợi liên quan. Nhưng khi tuyên bố hủy chính quyết đó của mình, Tòa án không cần căn cứ vào đâu bởi khi một con người bình thường có tư duy có nhận thức thì bất cứ ai cũng có thể nhận ra mà không cần đến những thủ tục giám định nữa. Hơn nữa việc một người tự ý thức được hành vi của mình yêu cầu tòa án hủy quyết định về tuyên bố mất năng lực hành vi của chính mình là một minh chứng rõ nét nhất về trạng thái tâm thần của họ.
Như vậy, khi một bên vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác, không thể nhận thức được hành vi của mình thì người còn lại sẽ là một trong những chủ thể có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố chồng hoặc vợ mình bị mất năng lực hành vi dân sự. Khi đưa đơn yêu cầu cần phải chứng minh được tình trạng sức khỏe tâm thần của chồng hoặc vợ mình bằng giấy chứng nhận của cơ sở y tế hoặc những người thân trong gia đình thống nhất xác nhận…Khi đó tòa án sẽ căn cứ vào yêu cầu và các chứng cứ khác để tuyên bố người chồng hoặc người vợ là mất năng lực hành vi. Sau đó thì người còn lại nếu đủ điều kiện giám hộ sẽ là người giám hộ đương nhiên của chồng hoặc vợ mình theo quy định "Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ" [18, Khoản 2 Điều 24], [22, Khoản 1 Điều 62], thể hiện "tính đương nhiên" là đại diện của nhau khi vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi. Theo đó thì khi một bên vợ hoặc chồng bị tuyên bố là mất năng lực hành vi thì bên còn lại nếu đủ