Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Đại Diện Theo Ủy Quyền Giữa Vợ Và Chồng Và Thực Tiễn Áp Dụng

trong Luật không có một quy định nào đề cập đến khái niệm mức độ hạn chế năng lực hành vi. Ta thấy rằng đây chính là lỗ hổng trong pháp luật nước ta bởi riêng về mặt khái niệm đã thể hiện sự thiếu rõ ràng đó là hạn chế thì hạn chế đến đâu, như thế nào? Điều này hết sức quan trọng bởi nó chính là cơ sở để quy định phạm vi đại diện của những người đại diện.

Như vậy trong trường hợp một bên vợ chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì việc tuyên bố tình trạng và mức độ hạn chế là vô cùng cần thiết. Trên cơ sở đó xác định các loại quan hệ dân sự, các loại giao dịch người này không được phép giao dịch và nếu có giao dịch thì người đại diện sẽ thực hiện thay thế. Người đại diện ở đây có thể cử hoặc theo quy định của pháp luật chứ không phải người chồng hoặc người vợ có thể là người đại diện đương nhiên của người này. Như vậy sẽ vừa đảm bảo được sự an toàn của giao dịch có liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi mà vừa đảm bảo được lợi ích của người thứ ba trong giao dịch

Khi người đại diện được Tòa án chỉ định là đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi thì người đại diện chỉ được xác lập các giao dịch trong phạm vi đại diện được quy định tại Điều 144, Bộ luật Dân sự. Theo đó người đại diện chỉ có thể thực hiện các giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện. Đây là điều luật hết sức chung chung, thiếu rõ ràng tuy nhiên cũng thể hiện được mục đích khi người đại diện xác lập, thực hiện hay chấm dứt giao dịch với bên thứ ba. Như vậy người đại diện lúc này tư cách chủ thể đơn thuần là người đại diện chứ không có tư cách của người giám hộ nữa. Trong quy định này đối với trường hợp người đại diện là người vợ hoặc chồng của người bị hạn chế năng lực hành vi thì ta phải hiểu rằng, mục đích của giao dịch phải tính thêm lợi ích của gia đình và con cái của người bị hạn chế năng lực hành vi này.

Khi người bị nghiện ma túy và các chất kích thích khác ngoài việc thực hiện giao dịch để phục vụ nhu cầu bản thân, họ còn có trách nhiệm của người vợ, người mẹ, người chồng, người cha với gia đình của mình. Chính bởi vậy

theo quy định: "Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày" [22, Khoản 2, Điều 23]. Đó là những giao dịch phải nhằm phu nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của cá nhân người bị hạn chế năng lực hành vi và gia đình họ. Các tiêu chí về nhu cầu sinh hoạt thiết yếu có thể thay đổi theo sự phát triển của xã hội. Có những nhu cầu rất cơ bản, chung đối với gia đình ở mọi nơi và trong mọi thời đại: thức ăn, quần áo của các thành viên, thuốc men, chi phí giáo dục con cái, bảo quản nhà cửa,... Có những nhu cầu đặc trưng của cuộc sống thị dân hiện đại: chi phí điện, nước, điện thoại, internet... những nhu cầu thiết yếu này thường được gia đình sử dụng từ tài sản chung của vợ chồng bởi lẽ các hoạt động thiết yếu thường để duy trì và tồn tại gia đình. Tài sản chung này thường là có nguồn gốc từ thu nhập của vợ, chồng. Các tài sản ấy, dù là của chung cũng có thể được người tạo ra chúng (người có thu nhập) tự mình sử dụng, định đoạt trong chừng mực hợp lý để đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt riêng, mà không cần hỏi ý kiến của vợ (chồng). Như vậy ta có thể hỏi: Liệu người có thu nhập phải bảo đảm việc chi tiêu cho các nhu cầu chung đến mức độ nào bằng thu nhập của mình, thì mới được tự do sử dụng phần còn lại của thu nhập đó cho những nhu cầu riêng? Hay ngay cả việc sử dụng tài sản vào mục đích cá nhân như mua ma túy phục vụ nhu cầu bản thân bằng tài sản riêng không làm ảnh hưởng đến tài sản chung của gia đình thì liệu điều đó có cần thiết phải có sự nhất trí của hai vợ chồng hay không? Lúc này mục đích của giao dịch đã quá rõ ràng nhưng người hạn chế năng lực hành vi lúc này ỷ thế vào lý do đó là tài sản riêng của họ và họ có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản đó thì điều này liệu có được chấp nhận?

Một cách hợp lý, thu nhập của một người phải được ưu tiên sử dụng để thanh toán các chi phí nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Mặt khác, vợ, chồng chỉ có thể đóng góp thu nhập của mình vào việc xây dựng khối tài sản chung theo sức thu nhập của mình , không thể nhiều hơn . Bởi vậy, có thể tin rằng mức đóng góp của vợ chồng vào việc chi phí cho các

nhu cầu thiết yếu của gia đình cũng phải tương ứng với sức thu nhập đó . Còn

các chi phí cá nhân khác như mua xì ke , ma túy để phuc vu ̣nhu cầu cá nhân

của người hạn chế năng lực hành vi có được liệt kê vào những chi phí sinh

hoạt hay không là điều ta cần phải bàn bạc . Có lẽ, trước hết các nhu cầu thiết yếu của gia đình được đáp ứng bằng tài sản chung. Và trên thực tế nếu thu nhập và các tài sản chung khác không đủ để trang trải chi phí thì sao? Luật nói rằng tài sản riêng của vợ, chồng cũng có thể được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng. Có thể hiểu rằng trong khung cảnh của luật thực định, vợ, chồng có trách nhiệm đóng góp ngang nhau trong việc thanh toán các chi phí ấy. Tuy nhiên, vấn đề là: khối tài sản riêng của mỗi người thường không ngang nhau. Có lẽ, cũng như trong trường hợp đóng góp vào việc chi tiêu bằng thu nhập, trong trường hợp như vậy sẽ là rất thiệt thòi cho người là vợ hoặc chồng của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Hơn thế nữa khi một người bị hạn chế năng lực hành vi sẽ thường không thể dùng có đủ sức khỏe để đảm bảo ổn định trong việc lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất dư dả để tích lũy trong gia đình.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Theo quy định: "Người đại diện chỉ thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện" [22, Khoản 3 Điều 144]. Nhưng phạm vi đại diện trong trường hợp này căn cứ vào đâu để biết được giới hạn của người đại diện đối với người được đại diện là vợ hoặc chồng bị hạn chế năng lực hành vi? Loại giao dịch nào thì được phép đại diện? Trong khi người đại diện theo pháp luật lúc này chỉ chịu trách nhiệm đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi trong các giao dịch liên quan đến tài sản còn các nhu cầu phục vụ sinh hoạt hàng ngày của người này không được phép can thiệp (Khoản 2, Điều 23 Bộ luật Dân sự). Trong trường hợp này có lẽ ta phải hiểu rằng đó chính là các tài sản có giá trị lớn mà khi thay đổi, chấm dứt giao dịch sẽ làm ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình nói chung. Bên cạnh đó pháp luật cũng dự liệu việc người đại diện không có tư cách đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện sẽ phải chịu trách nhiệm với chính hành vi của mình tại Điều 145,146 Bộ luật Dân sự.

(Sẽ phân tích rõ hơn trong đại diện theo ủy quyền). Như vậy, việc xác định phạm vi đại diện lại càng cần thiết. Tuy nhiên chúng tôi xin khẳng định lại một lần nữa về tư cách chủ thể của đại diện theo pháp luật của vợ và chồng là rất khó xác định bởi ý chí và lợi ích hướng tới của hai bên vợ chồng nhiều khi là thống nhất khi tham gia giao dịch.

Đại diện giữa vợ và chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành - 8

Pháp luật cũng quy định "Vợ hoặc chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình" [18, Điều 25]. Ta biết rằng người hạn chế năng lực hành vi vẫn có những quyền hạn nhất định trong các

giao dịch cụ thể liên quan đến nhu cầu sinh hoạt gia đình . Bởi khi môt bên vơ

hoăc

chồng chỉ bị han

chế năng lực hành vi thôi, họ vẫn có khả năng thực

hiên

đươc

các giao dịch liên quan đến bản thân họ thì không có điều gì đáng

bàn, tuy nhiên những vấn đề quan troṇ g cần sự thống nhất của cả hai vơ ̣

chồng thì nguyên tắc vợ hoặc chồng ch ịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu

cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình có đươc

thưc

hiên

? Bởi việc yêu cầu chịu

trách nhiệm liên đới của người bị hạn chế năng lực hành vi là rất khó.

Thêm nữa , trong giao dịch liên quan đến tài sản phải có sự thống nhất

của vợ chồng thì việc liên đới thưc

hiên

giao kết hơp

đồng sẽ có thể xảy ra

trong lúc giao kết có đươc

sự thống nhất ý chí của người chồng hoăc

vơ ̣ bi

hạn chế năng lực hành vi , nhưng trên thực tế hỏi ý kiến người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là hết sức khó khăn nhiều khi dẫn đến việc không thực hiện được các giao dịch. Bởi người bị hạn chế năng lực hành vi không phải lúc nào họ cũng tỉnh táo về lý trí để quyết định, hoặc đưa ra ý kiến để có sự thống nhất khi quyết định thực hiện hay không thực hiện giao dịch. Tuy nhiên đó là cá tài sản có giá trị lớn, còn những tài sản có giá trị nhỏ thì quyền đại diện của người vợ đối với người chồng khi chồng bị hạn chế năng lực hành vi cũng không bị giám sát. Đặt vấn đề trong thực tế việc chia nhỏ tài sản là động sản hoặc tiền để phá tán tài sản thì liệu giám sát được không khi mà người bị

hạn chế năng lực hành vi phải liên đới chịu trách nhiệm đối với các giao dịch dạng này? Theo ý kiến của chúng tôi cần tôn trọng ý kiến của người bị hạn chế năng lực hành vi dặc biệt trong lúc họ tỉnh táo. Chính bởi vậy đây chính là khó khăn cho người đại diện được Tòa án chỉ định trong trường hợp này.

Theo quy định: "Khi giao dịch dân sự do người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện" [22, Điều 130], ta cùng nghiên cứu ví dụ dưới đây:

Chồng tôi nghiện ma túy, nên tòa án ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, đồng thời chỉ định tôi làm người đại diện theo pháp luật của anh ấy. Vừa qua, chồng tôi mang xe máy (giấy đăng ký xe máy do chông tôi đứng tên) đi bán. Xin hỏi luật sư, việc bán chiếc xe máy có được pháp luật công nhận hay không? (Lê Thị H- Thái Bình) (Theo Dân Việt ngày 15/06/2011).

Theo ví dụ trên thì rõ ràng khi có tranh chấp thì việc tuyên vô hiệu là đương nhiên vì người bị hạn chế năng lực hành vi đã giao dịch mà không có sự đồng ý của người đại diện, nhưng xét về thực tế thì việc lấy lại chiếc xe máy là vô cùng khó khăn, vô hình chung pháp luật đã bị vô hiệu? Và như vậy, việc giao dịch với các đối tượng bị hạn chế năng lực hành vi thì việc rủi ro là khó tránh khỏi vì theo như giao dịch trên thì khi đó vụ việc xảy ra giao dịch sẽ tuyên vô hiệu gây thiệt hại cho bên thứ ba. Bởi khi giao dịch thực chất họ muốn mua tài sản đó và họ lại không buộc phải biết người giao dịch với mình đang ở trong tình trạng bị hạn chế năng lực hành vi. Vậy có cách nào để hạn chế điều này, phải chăng chúng ta chỉ còn trông cậy vào pháp luật hiện hành? Có nghĩa là khi một bên vợ chồng bị tuyên là hạn chế năng lực hành vi thì nếu tham gia giao dịch buộc phải thông qua người đại diện theo pháp luật của họ với tư cách đại diện, nếu họ đơn phương thực hiện giao dịch trong khi chưa bị tuyên bố là hạn chế năng lực hành vi thì khả năng giao dịch sẽ bị tuyên là vô

hiệu luôn thường trực. Bởi vậy có lẽ để đảm bảo việc thực hiện giao dịch dân sự an toàn thì người tham gia giao dịch cần nâng cao ý thức pháp luật dân sự để không bị rơi vào thực trạng trên.

Tóm lại, trong trường hợp vợ chồng đại diện cho nhau khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi thì điều cần thiết đó chính là việc tuyên bố mức độ hạn chế năng lực hành vi, cũng như việc phá tán tài sản của họ như thế nào để từ đó xác định người này được tham gia vào các loại giao dịch nào, giao dịch nào cần đại diện. Và phải có sự khác biệt khi đại diện chỉ định là vợ hoặc chồng của người bị hạn chế năng lực hành vi với những người đại diện khác.‌


2.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN GIỮA VỢ VÀ CHỒNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

2.2.1. Căn cứ pháp lý của việc đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng

2.2.1.1. Chủ thể đại diện trong quan hệ đại diện giữa vợ và chồng

"Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng; việc ủy quyền phải được lập thành văn bản" [18, Khoản 1, Điều 24]. Có nghĩa là vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau để thực hiện các giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật. Việc ủy quyền phải tuân thủ các quy định về đại diện theo ủy quyền của pháp luật dân sự Việt Nam được quy định cụ thể: "Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện" [22, Khoản 1, Điều 142]. (Đại diện theo ủy quyền trong pháp luật về tố tụng dân sự không nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này).

Theo đó, khi hai bên (bên đại diện và bên được đại diện) hay (bên được ủy quyền và bên ủy quyền) thiết lập một quan hệ ủy quyền đồng thời thiết lập một quan hệ hợp đồng với tính chất là sự thỏa thuận giữa các bên, bên được ủy quyền (người đại diện) có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân

danh bên ủy quyền (được đại diện). Bên ủy quyền (người được đại diện) phải trả thù lao nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Trong quan hệ đại diện theo ủy quyền, người được ủy quyền thay mặt người ủy quyền thực hiện một số hành vi nhất định làm phát sinh hậu quả pháp lý liên quan đến quyền lợi của các bên trong quan hệ hợp đồng hoặc lợi ích của người đã ủy quyền trong phạm vi ủy quyền. Vì vậy, xét về mặt bản chất pháp lý, quan hệ đại diện theo ủy quyền luôn tồn tại hai quan hệ:

1) Quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện. Trong quan hệ này người đại diện theo ủy quyền có nghĩa vụ phải thực hiện các hành vi pháp lý trong phạm vi ủy quyền. Người đại diện (được ủy quyền) phải trực tiếp thực hiện nghĩa vụ của mình mà không được ủy quyền lại cho người khác trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; Người được đại diện sẽ nhận được kết quả nhất định phát sinh từ việc người đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và phải trả thù lao theo quy định hoặc theo thỏa thuận cho người thực hiện giao dịch "hộ", "thay" mình.

2) Quan hệ giữa người đại diện theo ủy quyền với bên thứ ba của giao dịch. Người đại diện với tư cách của người được đại diện giao kết hoặc thực hiện các giao dịch dân sự với bên thứ ba. Người đại diện theo ủy quyền lúc này có những quyền và nghĩa vụ nhất định với bên thứ ba của giao dịch.

Như vậy, đối với trường hợp vợ chồng đại diện cho nhau trong giao dịch dân sự đặt ra vấn đề tư cách chủ thể của người đại diện và người được đại diện tồn tại mối quan hệ đặc biệt với nhau đó là quan hệ hôn nhân. Như ta đã biết đây là một quan hệ đặc biệt trong xã hội, các giao dịch liên quan đến quan hệ này chiếm phần lớn trong các giao dịch của xã hội. Việc vợ chồng đại diện cho nhau trong giao dịch dân sự luôn được pháp luật ủng hộ và công nhận. Với tư cách là người đại diện theo ủy quyền thì vai trò của người đại diện và người được đại diện đôi khi thống nhất với nhau. Một người thể hiện cả hai tư cách này trong quan hệ ủy quyền không phải là sự chồng chéo mà đó là tư cách đặc biệt chỉ có trong quan hệ hôn nhân. Sự ủy

quyền này nhiều lúc là đương nhiên, mặc nhiên được thừa nhận do tính chất hôn nhân đem lại nên nhiều khi không có sự phân định rõ ràng tư cách chủ thể ai là người đại diện và ai là người được đại diện trong quan hệ vợ chồng. Đặc thù này có được chính bởi sự thống nhất ý chí cũng như lợi ích của cả vợ và chồng khi xác lập giao dịch dân sự. Bên cạnh đó đối tượng tham gia giao dịch còn là tài sản chung của vợ chồng. Bởi vậy trong giao dịch dân sự tư cách người đại diện và người được đại diện nhiều khi không cần phân biệt rõ vì nó không thật cần thiết. Sự phân biệt này chỉ có tác dụng khi đại diện theo ủy quyền của vợ và chồng liên quan đến tài sản thuộc quyền sở hữu riêng, hoặc tài sản thuộc sở hữu chung mà một bên xác lập, thực hiện giao dịch mà không có sự đồng ý của bên kia hoặc không thể hiện rõ ràng.

Chính xuất phát từ quan hệ đại diện giữa vợ và chồng theo ủy quyền còn đảm bảo mối quan hệ giữa người đại diện theo ủy quyền và người thứ ba trong giao dịch. Trong đại diện theo ủy quyền giữa hai cá nhân không phải là vợ chồng thì quan hệ này cần được xác định rõ vì nó còn liên quan đến trách nhiệm của người đại diện với bên thứ ba trong khi thực hiện giao dịch. Cụ thể là trong trường hợp pháp luật quy định đối với người không có quyền đại diện mà thực hiện quyền đại diện sẽ dẫn đến hậu quả người này phải thực hiện nghĩa vụ đối với người giao dịch. Nhưng đối với đại diện giữa vợ và chồng thì tư cách đại diện luôn được xác định chính bởi quan hệ hôn nhân nên bên thứ ba thường không quan tâm đến vấn đề này khi tham gia giao dịch với một bên vợ chồng.

Người đại diện theo ủy quyền là cá nhân có thể là người "từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi" [22, Khoản 2 Điều 143].

Như vậy, khi vợ chồng là đại diện cho nhau thực hiện các giao dịch dân sự sẽ có duy nhất trường hợp người vợ đủ tuổi kết hôn nhưng chưa đủ 18 tuổi sẽ là chủ thể của quan hệ pháp luật đại diện theo ủy quyền. Trong trường hợp này, đặt ra vấn đề nếu giao dịch phải do người từ 18 tuổi trở lên mới được tham gia thì người vợ chưa thành niên được người chồng ủy quyền có được thực hiện giao dịch không?

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 26/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí