Quyền Và Nghĩa Vụ Của Việc Đại Diện Theo Ủy Quyền Giữa Vợ Chồng Trong Quan Hệ Kinh Doanh.

Bộ luật dân sự 2005 quy định “hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản” [29, khoản 2 Điều 142].

Hình thức đại diện theo ủy quyền quy định tại Luật HN & GĐ 2014 là bằng văn bản. Tuy nhiên quy định lại không yêu cầu rõ văn bản đó có cần công chứng hay không. Trong thực tế hiện nay, có rất nhiều giao dịch yêu cầu việc ủy quyền (giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền) phải thực hiện qua tổ chức hành nghề công chứng, nhưng có những giao dịch lại không yêu cầu. Như vậy việc quy định hình thức đại diện theo ủy quyền phải lập thành văn bản tạo điều kiện cho vợ chồng được lựa chọn hình thức ủy quyền phù hợp với quan hệ kinh doanh dự kiến xác lập.

Hình thức của văn bản ủy quyền rất quan trọng trong các giao dịch kinh doanh, thương mại, đặc biệt là trong việc giao dịch đối với những tài sản có đăng ký quyền sở hữu như bất động sản, ô tô, xe máy,….. Khi vợ hoặc chồng đại diện cho nhau thực hiện quan hệ kinh doanh bằng việc sử dụng các tài sản có đăng ký quyền sở hữu đều phải lập văn bản ủy quyền (Hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền). Còn việc văn bản ủy quyền này có công chứng hay không lại phụ thuộc vào từng loại tài sản.

Phạm vi đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh

Phạm vi đại diện đối với tài sản mà vợ chồng dùng để kinh doanh “Phạm vi đại diện theo ủy quyền được xác lập theo sự ủy quyền” [29, Khoản 2 Điều 144]. Theo Điều 36 Luật HN & GĐ 2014 sau khi thỏa thuận bằng văn bản người đại diện có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Như vậy toàn bộ quyền liên quan đến tài sản sử dụng để kinh doanh người đại diện sẽ thay mặt người còn lại để thực hiện. Tuy nhiên việc đại diện toàn bộ này

chỉ có được thực hiện đối với những tài sản không phải đăng ký. Đối với những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu như bất động sản khi muốn thực hiện các giao dịch có liên quan phải tuân thủ quy định của BLDS, Luật Đất đai, Luật Công chứng về việc ký hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền tại tổ chức hành nghề công chứng theo quy định của Luật Đất đai và Luật Công chứng.

2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của việc đại diện theo ủy quyền giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh.

Đại diện theo ủy quyền thực hiện các công việc liên quan đến tài sản riêng của vợ chồng trong quan hệ kinh doanh.

Theo quy định của Luật HN & GĐ 2014 vợ chồng có quyền sử dụng tài sản riêng để kinh doanh chung. Vợ chồng có quyền đại diện cho nhau hợp pháp theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trước khi kinh doanh theo quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật HN& GĐ 2014.

Như vậy điều luật này đã hạn chế quyền của người có tài sản riêng. Đó là vợ chồng chỉ có quyền thỏa thuận khác trước khi kinh doanh hoặc luật liên quan có quy định khác. Khi đã tham gia kinh doanh chung thì không được phép có văn bản thỏa thuận mà đương nhiên vợ chồng được quyền đại diện cho nhau.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.

Quy định này hoàn toàn không phù hợp với thực tế cũng như làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người có tài sản. Trong trường hợp người đại diện đương nhiên lợi dụng quyền để trục lợi cho bản thân thì cũng chưa có hướng giải quyết quyền lợi cho người được đại diện nếu tài sản đã bị tẩu tán.

Việc không quy định về lập văn bản thỏa thuận sau khi đã tham gia quan hệ kinh doanh làm cho giao dịch không được an toàn, dễ gây thiệt hại có một bên cố ý.

Đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện hành - 7

Ví dụ: A và B là vợ chồng. Do có nhu cầu về kinh doanh sắt thép nên A góp 500.00.000 triệu đồng và B góp 500.000.000 triệu đồng. Đây đều là tài sản

riêng có trước hôn nhân của A và B. Trước khi kinh doanh A và B không lập văn bản thỏa thuận về việc một người đại diện để ký kết hợp đồng mua bán với bên cung cấp thép. Trong quá trình kinh doanh nhiều lần do A bận chăm sóc con nhỏ nên B đã ký kết hợp đồng mua bán với bên cung cấp. Do nghiện lô đề nên số tiền để thanh toán cho nhà cung cấp B đã dùng để trả nợ lô đề. Khi nhà cung cấp yêu cầu vợ chồng A và B phải thanh toán số tiền đang nợ thì A mới biết. Nhà cung cấp đưa ra lý do rằng A và B là vợ chồng nên phải chịu trách nhiệm liên đới đối với số tiền đang nợ.

Như vậy trong trường hợp này A hoàn toàn không biết đến việc B đã ký kết hợp đồng với nhà cung cấp mà không thanh toán tiền. Nếu theo quy định của pháp luật thì A sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán số nợ cho nhà cung cấp, mặc dù A hoàn toàn không biết đến sự kiện giao dịch này.

Có thể thấy quyền lợi của các bên sẽ bị ảnh hưởng khi quan hệ đại diện thực hiện mà không có thỏa thuận bằng văn bản.

Đại diện theo ủy quyền thực hiện các công việc liên quan đến tài sản chung của vợ chồng trong quan hệ kinh doanh.

Đối với tài sản chung được sử dụng để kinh doanh thì vợ hoặc chồng có quyền đại diện cho người còn lại thực hiện các giao dịch. Quy định này bắt buộc vợ chồng phải có văn bản thỏa thuận. Việc lập thỏa thuận là phù hợp với quy định của BLDS cũng như đảm bảo sự an toàn cho giao dịch.

Theo luật HN & GĐ 2014 thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này” [31, khoản 1 Điều 33].

Theo như quy định này thì những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đều là tài sản chung của vợ chồng. Như vậy hoa lợi, lợi tức phát sinh từ việc kinh doanh chung của vợ chồng theo khoản 1 Điều 25 Luật HN & GĐ 2014 đều là tài sản chung.

Quy định về đại diện của vợ chồng khi sử dụng tài sản chung để kinh doanh đảm bảo được quyền lợi của các bên và thể hiện sự chặt chẽ trong quy định của pháp luật.

Lập văn bản thỏa thuận khi vợ hoặc chồng đại diện cho người còn lại tham gia vào quan hệ kinh doanh tránh việc người đại diện làm thất thoát tài sản vì mục đích riêng cũng như đảm bảo việc đại diện được thực hiện đúng theo phạm vi đã đại diện.

Ví dụ: Bà A đồng ý lập Hợp đồng ủy quyền cho ông B là chồng của mình đại diện ký kết các giấy tờ có liên quan đến tài sản chung của hai vợ chồng là quyền sử dụng đất có diện tích 190m2 với ngân hàng C để vay vốn, số tiền vay là 300.000.000 đồng. Như vậy ông B bằng giấy ủy quyền này chỉ được xác lập giao dịch với ngân hàng C để vay số tiền theo hợp đồng ủy quyền đã quy định. Bà A cũng chịu trách nhiệm trong phạm vi số tiền đã đồng ý ủy quyền cho ông B vay. Nếu bên ngân hàng C và ông B ký kết hợp đồng với số tiền vay cao hơn thì bà A có quyền không chịu trách nhiệm với phần vượt quá đó.

Việc lập văn bản thỏa thuận cũng đảm bảo bên được ủy quyền không trốn tránh trách nhiệm của mình đối với giao dịch mà người đại diện đã xác lập với bên thứ ba. Quyền lợi của bên thứ ba sẽ được đảm bảo hơn.

2.3. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng về vấn đề đại diện trong quan hệ kinh doanh.

Những rủi ro cho vợ hoặc chồng rất dễ xảy ra trong quan hệ đại diện, đặc biệt là đại diện trong quan hệ kinh doanh. Thực tế phát sinh những trường hợp,

khi vợ chồng kinh doanh chung, người vợ hoặc chồng lợi dụng việc kinh doanh để vay mượn tiền từ người thứ ba với lý do kinh doanh nhưng thực chất chỉ sử dụng một phần nhỏ cho hoạt động kinh doanh chung, còn lại được sử dụng vào mục đích cá nhân nhưng người còn lại vẫn liên đới chịu trách nhiệm.

Trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong quan hệ kinh doanh không phải là một vấn đề mới. Mặc dù Luật HN & GĐ 2000 không quy định nhưng xuất phát từ thực tiễn cuộc sống cũng như giải quyết các tranh chấp, trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong quan hệ kinh doanh vẫn được đặt ra. Tại thời điểm Luật HN & GĐ chưa có quy định về trách nhiệm liên đới của vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh thì bản chất hay mục đích của việc kinh doanh là yếu tố để quyết định vợ chồng có phải chịu trách nhiệm liên đới hay không. Tuy nhiên, do không có quy định cụ thể nên việc giải quyết các trường hợp về trách nhiệm của vợ, chồng trong quan hệ kinh doanh còn mang tính chủ quan, suy diễn và cùng một vụ án nhưng lại có nhiều hướng giải quyết khác nhau.

Ví dụ: Từ ngày 02 -7-1997 đến 28-2-1997, bà Nguyễn Thị Nga có cho bà Đào Thị Nhâm vay 7 lần tổng cộng là 477.000.000 đồng. Việc vay nợ chỉ do một mình bà Nhâm ký giấy nhận nợ. Hai bên thỏa thuận lãi suất 2%/tháng, bà Nhâm có giao cho bà Nga giấy tờ nhà 3 tầng do bà Nhâm đứng tên để thế chấp nợ. Do bà Nhâm không chịu trả nợ nên bà Nga đã khởi kiện đòi nợ. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 23/3/1999 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Phả và tại Bản án dân sự phúc thẩm số 32/DSPT của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đều quyết định: Buộc bà Nhâm phải hoàn trả bà Nga 477.000.000 đồng tiền nợ gốc và 143.000.000 đồng tiền lãi. Ngày 03-5-2002 Phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã có quyết định số 54/KNDS kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên với nhận định: Cần xác định ông Hà Văn Hiên – chồng bà Nhâm liên đới chịu trách nhiệm trả nợ, vì việc kinh doanh của bà Nhâm nhằm đáp ứng nhu cầu sinh

hoạt của gia đình và ông Hiên không thừa nhận nhưng ông Hiên đương nhiên phải biết việc kinh doanh đó của bà Nhâm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 173/GĐT-DS ngày 22-8-2002 của Tòa án nhân dân tối cao đã hủy Bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm lại theo hướng kháng nghị của Phó chánh án. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 30-6-2003 và Bản án dân sự phúc thẩm số 131/DSPT ngày 19-6-2003 đều quyết định: Buộc bà Nhâm và ông Hiên phải trả nợ cho bà Nga 477.000.000 đồng nợ gốc và 391.000.000 đồng tiền lãi [21].

Nhận xét: Cách giải quyết trên nghe có vẻ hợp lý, tuy nhiên nếu theo cách lập luận như trường hợp trên thì hầu hết các trường hợp kinh doanh đều được quy về mục đích là nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình và do đó, vợ, chồng phải chịu trách nhiệm liên đới. Nếu như giao dịch từ việc kinh doanh làm phát sinh nghĩa vụ như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại thì vợ, chồng có phải chịu trách nhiệm liên đới đối với nghĩa vụ này không?

Đến Luật HN & GĐ 2014 lần đầu tiên đã quy định: “1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các Điều 24,25,26 của Luật này.

2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này” [31, Điều 27].

Vì vậy, để tránh những trường hợp trên, vợ chồng nên có thỏa thuận về việc một bên xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị từ bao nhiêu thì cần phải có sự đồng ý của hai vợ chồng.

Luật HN & GĐ 2014 chỉ quy định về việc vợ chồng phải có thỏa thuận trước khi tham gia quan hệ kinh doanh nhưng lại không quy định rõ về hình thức của thỏa thuận. Vì vậy, nếu vợ, chồng chỉ có thỏa thuận bằng miệng mà không

bằng văn bản thì có giá trị pháp lý hay không, và nếu có tranh chấp xảy ra với người thứ ba thì cơ sở pháp lý nào để xác định rằng có sự thỏa thuận của vợ, chồng trước khi tham gia quan hệ kinh doanh. Bên cạnh đó, Luật HN & GĐ 2014 cũng chỉ quy định về thỏa thuận xác lập trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, trong khi có những vấn đề chỉ nảy sinh sau khi phát sinh quan hệ kinh doanh và vợ chồng muốn thỏa thuận thì có được chấp thuận hay không?

Một vấn đề nữa cũng chưa được quy định rõ ràng, đó là khái niệm “kinh doanh chung”. Thế nào là vợ chồng kinh doanh chung. Kinh doanh chung là vợ, chồng cùng trực tiếp kinh doanh bằng tài sản riêng hay chỉ cần vợ chồng đưa tài sản chung vào để kinh doanh và một bên trực tiếp kinh doanh.

Một thực tế hiện nay là nhiều trường hợp vợ chồng đưa tài sản chung vào kinh doanh nhưng pháp luật về doanh nghiệp lại chưa có quy định về loại hình doanh nghiệp vợ chồng. Chẳng hạn đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân. Đây là loại hình doanh nghiệp thường được sử dụng tài sản chung của vợ chồng để thành lập. Nếu xét trên thực tế có thể thấy tài sản được dùng để thành lập doanh nghiệp tư nhân là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 thì: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Như vậy, mặc dù tài sản chung được sử dụng để thành lập doanh nghiệp nhưng chỉ có người đăng ký là chủ sở hữu mới được xác định là chủ sở hữu của doanh nghiệp tư nhân. Điều này là không phù hợp bởi tài sản doanh nghiệp là tài sản chung của vợ chồng.

Có ý kiến cho rằng, việc đưa tài sản chung vào thành lập doanh nghiệp đồng nhất với việc vợ, chồng thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và do đó tài sản của doanh nghiệp lúc này được xác định là tài sản riêng của chủ sở hữu doanh nghiệp. Nhưng cách lý giải này không hợp lý bởi vì Luật

HN &GĐ 2014 quy định việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải được lập thành văn bản. Như vậy, tài sản doanh nghiệp là tài sản chung của vợ chồng, lợi tức phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là tài sản chung của vợ chồng, nếu vợ chồng không có thỏa thuận về chế độ tài sản trước khi kết hôn, nhưng trách nhiệm phát sinh từ hoạt động của doanh nghiệp lại chỉ quy về trách nhiệm của chủ sở hữu doanh nghiệp. Điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ thể thứ ba giao dịch với doanh nghiệp tư nhân.

Bên cạnh đó, vấn đề đặt ra là khi vợ, chồng có tranh chấp về tài sản hoặc khi vợ chồng ly hôn thì vợ, chồng có được chia tài sản chung trong tài sản doanh nghiệp hay không? Và có những trường hợp cả hai vợ chồng cùng sử dụng tài sản chung để thành lập hai doanh nghiệp tư nhân khác nhau. Khi phát sinh trách nhiệm của một doanh nghiệp, bên vợ hoặc chồng là chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Vậy tài sản của vợ hoặc chồng trong tài sản doanh nghiệp tư nhân còn lại có được lấy để thực hiện nghĩa vụ hay không? Luật HN & GĐ 2014 lần đầu tiên đã quy định về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi đưa vào kinh doanh. Theo đó vợ chồng thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác. Như vậy người được tiếp tục quản lý phần tài sản mà vợ chồng kinh doanh chung phải có trách nhiệm thanh toán cho người còn lại một phần tiền tương ứng với giá trị mà họ được hưởng.

Ở đây có thể có một số cách hiểu, giá trị được hưởng là giá trị mà vợ hoặc chồng đã đóng góp vào khối tài sản chung sử dụng để kinh doanh hay được hiểu là giá trị được hưởng bao gồm phần giá trị mà vợ hoặc chồng đã đóng góp cộng với lợi nhuận phát sinh cũng như công sức đóng góp từ hoạt động kinh doanh này.

Xem tất cả 94 trang.

Ngày đăng: 26/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí