quy định về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh là cần thiết và phù hợp.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh. Phân tích và làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn của đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh để từ đó làm cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật, cũng như đưa ra một số định hướng, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bên trong quan hệ hôn nhân cũng như các chủ thể khác trong giao dịch với vợ, chồng.
- Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện những mục đích trên, luận văn còn có những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu để làm rõ vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hiện hành về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh.
+ Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện của vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về ưu, nhược điểm khi áp dụng pháp luật.
+ Đề xuất đưa ra những định hướng, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh để tăng cường hiệu quả của quy định pháp luật trong thực tiễn áp dụng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện hành - 1
- Sơ Lược Lịch Sử Pháp Luật Việt Nam Về Quan Hệ Đại Diện Giữa Vợ Chồng Trong Quan Hệ Kinh Doanh
- Thực Trạng Đại Diện Theo Pháp Luật Giữa Vợ Chồng Trong Quan Hệ Kinh Doanh
- Trong Trường Hợp Vợ, Chồng Đưa Tài Sản Chung Vào Kinh Doanh Thì Áp Dụng Quy Định Tại Điều 36 Của Luật Này” [31, Điều 25].
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Những vấn đề lý luận chung về đại diện theo quy định của pháp luật dân sự;
+ Những quy định của pháp luật cụ thể về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh;
+ Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật vào thực tế.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về vấn đề đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh, vì vậy luận văn đi từ cái chung đến cái riêng, với nguồn cơ bản là Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này chỉ nghiên cứu các vấn đề về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như các quan điểm của Đảng, Nhà nước về pháp luật, hôn nhân và gia đình.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê, logic v.v...
6. Tính mới và đóng góp của đề tài
Hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh. Là vấn đề mới được cụ thể hóa trong luật nên hiện nay chỉ dừng lại ở việc có những bài viết, bài giảng riêng lẻ đánh giá về nó.
Luận văn cố gắng làm sáng tỏ những vấn đề mà thực tế trong cuộc sống đang xảy ra, đánh giá cặn cẽ tác động của luật định đối với vấn đề này trong cuộc sống để từ đó đưa ra hướng đề xuất phù hợp. Chính vì vậy mục tiêu mà luận văn hướng đến là làm tài liệu tham khảo cho hoạt động áp dựng thực tiễn cũng như tài liệu nghiên cứu khoa học về sau.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đại diện giữa vợ chồng
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành ở Việt Nam về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh.
Chương 3: Nhu cầu, định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG TRONG QUAN HỆ KINH DOANH
1.1. Khái niệm,đặc điểm đại diện và đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh
1.1.1. Khái niệm chung về “Đại diện”
Đại diện là một chế định pháp lý theo đó người đại diện độc lập thực hiện sự thể hiện ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lý trực tiếp đối với người được đại diện. Xét từ góc độ lý luận thì người thực hiện các hành vi pháp lý đồng thời là người tiếp nhận kết quả của các hành vi đó. Có thể thấy đại diện là một chế định pháp luật thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong cách thức tham gia vào giao dịch dân sự (GDDS) của các chủ thể.
Theo cách diễn giải tại cuốn Từ điển tiếng Việt thì đại diện là sự “thay mặt (cho cá nhân, tập thể)” [35, tr.279].
Từ điển Luật học giải thích đại diện là “việc một người, một cơ quan, tổ chức nhân danh người, cơ quan, tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền đại diện” [36, tr225].
Với các cách hiểu này có thể thấy chủ thể tham gia giao dịch gồm có người đại diện, người được đại diện và một bên thứ ba khi người đại diện thay mặt người được đại diện giao dịch vớibên thứ ba. Cả ba bên đều có thể là cá nhân, tổ chức. Như vậy mối quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện là sự thỏa thuận tự nguyện và đúng theo quy định của pháp luật. Các giao dịch mà người đại diện thay mặt người được đại diện thực hiện với Bên thứ ba sẽ tạo ra quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện.
Trong xã hội La Mã, người chủ trong gia đình được quyền sở hữu mọi thứ do những người trong gia đình có được từ các nguồn khác nhau hoặc do nô lệ tạo
nên. Vì vậy mà luật La Mã không có quy định nào cụ thể về đại diện như các nước theo truyền thống Common Law [7, tr.26-31].
Càng về sau, do yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu trong thương mại và vấn đề đại diện được đề cập đến nhiều hơn. Cho đến ngày nay, chế định này đã phổ biến rộng rãi trong đời sống giao lưu dân sự. Nó thừa nhận sự tự do ý chí của các bên, theo đó phải tuân thủ những cam kết mà mình đã đưa ra.
Hầu như các quốc gia trên thế giới, dù theo truyền thống Common Law hay Civil Law đều thừa nhận và quy định về chế định đại diện. Bộ luật Dân sự Đức quy định: “Biểu lộ ý chí mà một người đưa ra bằng tên của người được đại diện trong phạm vi quyền đại diện của mình có hiệu lực trực tiếp đối với cả lợi ích và việc chống lại người được đại diện. Không có sự khác biệt giữa biểu lộ ý chí được đưa ra một cách rõ ràng bằng tên của người được đại diện, hoặc nếu hoàn cảnh chỉ ra rằng biểu lộ ý chí phải đưa ra bằng tên của người đại diện” [3].
Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 cũng đã quy định về đại diện như sau: “Ủy quyền hay ủy nhiệm là hành vi mà theo đó một người trao cho người khác quyền làm một việc gì đó cho người ủy quyền bằng tên của người ủy quyền.
Hợp đồng không được tạo lập khi không có sự chấp thuận của người được ủy quyền.” [4, Điều 1984].
Ở Việt Nam, chế định đại diện được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật và cụ thể nhất là trong Bộ luật Dân sự 2005.
Từ những quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 và các văn bản khác có thể rút ra được khái niệm về đại diện là: Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) thay mặt người khác (sau đây được gọi là người được đại diện) thực hiện một số giao dịch dân sự nhất định vì lợi ích hợp pháp trong phạm vi được người đại diện cho phép.
Đặc điểm của quan hệ đại diện
Đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự, vì thế ngoài các đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự thì đại diện còn có những đặc điểm riêng:
- Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại: Đó là quan hệ bên trong và quan hệ bên ngoài [18, tr.142].
Quan hệ bên trong là quan hệ được hình thành giữa người được đại diện và người đại diện theo quy định của pháp luật (đại diện theo pháp luật) hoặc theo hợp đồng (đại diện theo ủy quyền). Người đại diện là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nhân danh chủ thể trong việc thực hiện các giao dịch pháp luật cho phép hoặc theo nội dung được ủy quyền. Người được đại diện có thể là cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu ủy quyền cho một cá nhân khác thay mình thực hiện một công việc, một giao dịch dân sự nào đó.
Ví dụ: Theo quy định của pháp luật hiện hành thì mọi giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi đều phải do người đại diện xác lập, thực hiện. Như vậy quan hệ đại diện ở đây được xác lập theo quy định của pháp luật chứ không phải dựa trên sự thỏa thuận của các bên.
Quan hệ bên ngoài là quan hệ được xác lập giữa người được đại diện và người thứ ba. Quan hệ bên trong là tiền đề, là cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại của quan hệ bên ngoài.
- Người đại diện nhân danh người được đại diện thực hiện các giao dịch dân sự với bên thứ ba.
Ở đây người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba nhân danh người được đại diện chứ không nhân danh bản thân mình, vì vậy các quyền và nghĩa vụ do người đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện với người thứ ba đều thuộc về người được đại diện. Người đại diện có thể được hưởng những lợi
ích nhất định từ người được đại diện khi thực hiện hành vi đại diện với người thứ ba, chứ không được hưởng bất kỳ lợi ích nào từ người thứ ba.
Trong giao dịch do người đại diện nhân danh người được đại diện xác lập thực hiện phát sinh với người thứ ba chứ không phải người được đại diện là người trực tiếp xác lập và thực hiện giao dịch dân sự với người thứ ba. Trường hợp người đại diện thực hiện việc đại diện vượt quá thẩm quyền hoặc không có thẩm quyền thì tùy vào từng trường hợp cụ thể, chủ thể của giao dịch dân sự đó sẽ thay đổi. Người đại diện sẽ trở thành một bên đại diện và chịu trách nhiệm đối với hậu quả pháp lý của giao dịch đó.
- Người đại diện được chủ động trong việc xác lập giao dịch dân sự với bên thứ ba trong phạm vi đại diện nhằm đảm bảo quyền lợi cao nhất cho người được đại diện.
Phạm vi đại diện mà người đại diện thực hiện trong quá trình giao dịch với bên thứ ba áp dụng theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các bên.
- Trong quan hệ đại diện, người được đại diện trực tiếp thu nhận các kết quả pháp lý do hoạt động của người đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện mang lại.
Phạm vi đại diện được hiểu là hành động thực hiện với tư cách một người khác mà được sự đồng ý của họ.
Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập thực hiện với người thứ ba đều thuộc về người được đại diện, điều này có nghĩa là quan hệ pháp luật dân sự phát sinh giữa người được đại diện và người thứ ba, chứ không phải giữa người trực tiếp tiến hành xác lập giao dịch dân sự - người đại diện với người thứ ba.
Trong trường hợp người đại diện thực hiện giao dịchvượt quá phạm vi đại diện thì người được đại diện sẽ không phải chịu trách nhiệm đối với phạm vi vượt quá đó trừ trường hợp người được đại diện đồng ý.
Nguyên tắc của quan hệ đại diện
- Dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự do của công dân theo Hiến pháp. Công dân có quyền và lợi ích dù không thực hiện các giao dịch dân sự có liên quan tới mình và được thực hiện thông qua người đại diện. Đại diện bảo đảm cho quyền của công dân không bị gián đoạn khi mà họ có nhu cầu giao dịch nhưng vì những lý do khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng mà không thể tự mình thực hiện giao dịch được.
- Dựa trên nguyên tắc tự do giao kết của các chủ thể trong xã hội. Công dân có quyền làm những việc mà pháp luật không cấm. Vì vậy mà trong khuôn khổ quy định của pháp luật, các cá nhân có quyền thay mặt nhau thực hiện những công việc theo thỏa thuận. Người đại diệnnhân danh người được đại diện trong giao dịch, nhưng cũng có quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong phạm vi đại diện đó .
Ý nghĩa của quan hệ đại diện
Trong đời sống hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội và các mối giao lưu dân sự, quan hệ đại diện được xác lập ngày càng nhiều. Bởi vậy chế định đại diện có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn quan hệ pháp luật dân sự.
- Hiện nay có rất nhiều cá nhân rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nhưng vẫn có nhu cầu về các giao dịch tối thiểu để phục vụ sinh hoạt của mình cũng như thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản đối với bên thứ ba. Những hạn chế đó cản trở và họ không thể tự mình thực hiện các giao dịch. Chế định đặt ra vấn đề giám hộ, đại diện giúp đỡ rất lớn cho những người không đủ khả năng