Bài 1 tuy có công thức “Ước gì” nhưng không thuộc mẫu đề “Ước muốn hóa thân” vì nó không có các công thức thể hiện sự hóa thân như trong bài ca thứ hai (“hóa ra hoa”, “hóa ra chăn”).
Nhiều mẫu đề về nỗi nhớ khác nhau nhưng đều có chung công thức “chiều chiều”- thời điểm những người xa nhau, xa quê trào dâng một nỗi nhớ thương da diết. Đó là mẫu đề nỗi nhớ mẹ của người con gái: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau / Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”, “Chiều chiều xách giỏ hái rau / Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần”; mẫu đề nỗi nhớ của những người yêu nhau: “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều / Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai”, “Chiều chiều mang giỏ hái dâu / Hái dâu không hái hái câu ân tình”, “Chiều chiều ra đứng bờ ao / Nước kia không khát, khát khao duyên nàng”, “Chiều chiều ra đứng bờ biền / Nhện giăng tơ đóng cảm phiền thương em”, “Chiều chiều vãn cảnh vườn đào / Hỏi thăm hoa lý rơi vào tay ai?”, “Chiều chiều vịt lội bàu sen / Để anh lên xuống làm quen ít ngày”, “Chiều chiều ra đứng cổng làng / Nghe trống bãi tràng em chạy đón anh”, “Chiều chiều vịt lội sang sông / Trời gầm đá nẻ thiếp không bỏ chàng”.
Đặc điểm thứ hai: Một bài ca dao thường có một mẫu đề, nhưng cũng có bài ca dao có hai hoặc ba, bốn mẫu đề
Không ít bài ca dao chỉ có một mẫu đề, ví dụ những bài ca dao thuộc mẫu đề “Mười yêu” (hoặc “Mười thương”) hay “Mười ghét”. Trong trường hợp này, các công thức của bài ca dao là hình thức diễn đạt các chi tiết đáng yêu thuộc vẻ đẹp hình thức và phẩm chất, tạo nên vẻ đẹp, cái duyên của con người, mà thường là của các cô gái. Cũng không ít các bài ca dao có từ hai
mẫu đề trở lên. Trong trường hợp này, sẽ có mẫu đề chính và mẫu đề phụ. Mẫu đề phụ được kết hợp để tô đậm mẫu đề chính.
Cũng cần phải nói thêm rằng không phải trường hợp nào, việc phân biệt mẫu đề chính và phụ cũng dễ dàng, vì các mẫu đề đan xen với nhau rất phức tạp, tinh tế. Ví dụ ở bài ca dao “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa”, có thể thấy một số mẫu đề kết hợp nhuần nhuyễn với nhau. Đầu tiên là mẫu đề về phong cảnh quê hương với các công thức như: địa danh – phong cảnh, công thức lời mời gọi (“Ai lên”), công thức bình giá cảnh vật (“Bõ công...”). Tiếp đó là những mẫu đề khác, thể hiện sự trách móc, sự hối tiếc qua các dòng cuối của bài ca dao này.
Mối quan hệ giữa các mẫu đề rất linh hoạt – có thể dễ dàng kết hợp lại hay tách ra - chứ không cố định, cứng nhắc dù sự liên kết giữa các mẫu đề được sắp xếp theo một trật tự định sẵn. Nghiên cứu các mẫu đề liên kết với nhau sẽ giúp cho việc tìm hiểu về thi pháp ca dao, làm rõ bản chất thể loại. Ngoài ra, việc nghiên cứu như thế sẽ giúp hiểu thêm về đời sống tâm lý, tình cảm của nhân dân lao động.
2.4. Cách tìm và xác định mẫu đề trong ca dao
Có thể bạn quan tâm!
- Đặc trưng kết cấu ca dao trữ tình - 8
- Đặc trưng kết cấu ca dao trữ tình - 9
- Công Thức Truyền Thống Trong Việc Xây Dựng, Tạo Nên Các Bài Ca
- Đặc trưng kết cấu ca dao trữ tình - 12
- Vận Dụng Tìm Hiểu Một Số Mẫu Đề Và Các Cơng Thức Của Chúng Trong “Kho Tàng Ca Dao Người Việt”
- Kết Cấu Ca Dao Trữ Tình Xét Ở Góc Độ Các Biện Pháp Tu Từ
Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.
Để xác định mẫu đề trong ca dao, chúng tôi tập hợp những bài ca dao gần gũi, có chung nội dung, chủ đề và nhiều công thức truyền thống giống nhau vào một nhóm và coi đó là một mẫu đề. Về mặt lý thuyết thì như vậy, trong thực tế, vấn đề không đơn giản.
Theo Nguyễn Hằng Phương, trong “Cảm hứng chủ đạo trong ca dao người Việt”, “khảo sát 300 lời ca dao cổ truyền về đề tài tình yêu in trong Kho tàng ca dao người Việt (tập 1), chúng tôi thống kê được 8 chủ đề: tình yêu say đắm bất chấp mọi khó khăn trở ngại: 45 lời (chiếm 15%); Tình yêu tan vỡ vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan: 27 lời (chiếm 9%);
Tình yêu chân thực, giản dị nhưng vô cùng đẹp đẽ, nên thơ: 103 lời (chiếm 34,33%); Nỗi nhớ nhung, thổn thức trong tình yêu: 108 lời (chiếm 36%); Sự giận hờn, trách cứ trong tình yêu: 16 lời (chiếm 5,33%); Đừng bỏ lỡ cơ hội yêu: 5 lời (chiếm 1,66%); Vẻ đẹp lý tưởng của người yêu và tình yêu: 2 lời (chiếm 0,66%)” (Nguồn “Diễn đàn ca dao-Tục ngữ”).
Việc phân chia 300 lời ca dao thành 8 chủ đề như trên trong khảo sát của Nguyễn Hằng Phương cĩ ý nghĩa đối với việc tìm hiểu cảm hứng chủ đạo trong ca dao người Việt như tên gọi và cũng là mục đích nghiên cứu của bài báo, song chưa cĩ ý nghĩa nhiều đối với việc tìm hiểu các mẫu đề và các cơng thức truyền thống tạo nên cấu trúc các mẫu đề đĩ của ca dao. Để tìm hiểu các mẫu đề và các cơng thức truyền thống của chúng, cần cĩ sự phân tích sâu hơn, cụ thể hơn và hướng tiếp cận khác.
Cách tiếp cận của chúng tôi là tập hợp thành nhóm, thành hệ thống nhỏ những bài ca dao không chỉ giống nhau về đề tài, chủ đề mà cả về hình thức thể hiện qua các công thức truyền thống. Sau khi đã tập hợp các bài ca như vậy vào một mẫu đề, chúng tôi đặt tên cho mẫu đề đó.
Cách đặt tên mẫu đề như sau:
+ Cách thứ nhất: Có thể laáy ý nghĩa khái quát chung cuûa nhoùm lời ca để đặt tên cho mẫu đề
Các bài ca dao vốn không có tên. Người đời sau có khi lấy ý nghĩa khái quát chung để đặt tên cho lời ca dao. Mẫu đề cũng thế, có thể đặt tên cho mẫu đề dựa vào ý nghĩa khái quát chung của nhóm bài ca. Ví dụ: mẫu đề “Ước muốn – hoá thân”, “Chí làm trai”, “Lời thề”, “Mười thương” (hay “Mười yêu”, “Mười lo”), mẫu đề “nói ngược”,...
+ Cách thứ hai: Lấy cặp từ đối lập cũng là cặp từ thể hiện những đối lập chính, đối lập cơ bản trong nội dung thể hiện của bài ca
Ví dụ các cặp từ đối lập sau đây có thể dùng để đặt tên cho các mẫu đề: “Còn duyên - Hết duyên”, “Còn tiền - Hết tiền”, “Chưa chồng - Có chồng rồi”, “No
- Đói”, “Ngày đi -Ngày về”,...
Ví dụ: Mẫu đề “Nhiều tiền - Hết tiền”:
-Nhiều tiền lắm chị nhiều anh Hết tiền ai biết là danh phận gì
-Nhiều tiền lắm mẹ nhiều cha
Hết tiền nghèo khó chẳng ma nào nhìn
-Nhiều tiền quần lượt áo là Hết tiền áo rách vá ba bốn lần
Mẫu đề “Còn duyên - Hết duyên”:
-Còn duyên anh cưới ba heo
Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi
-Còn duyên anh cưới ba heo Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi
Còn duyên kẻ đón người đưa Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng
Còn duyên yếm thắm dải đào Hết duyên vú đét thợ rào vồ đe
-Còn duyên buôn cậy bán hồng Hết duyên buôn mít cho chồng nhặt xơ
-Còn duyên kén cá chọn canh Hết duyên rốc đực, cua kềnh cũng vơ
-Còn duyên còn cuốc, còn khao Hết duyên bị gậy ra vào cổng kho Còn duyên chửa nói đã cười
Hết duyên gọi chín mười lời chả thưa
Còn duyên đi dép đi hài
Hết duyên đi guốc xỏ quai bằng thừng
-Còn duyên đóng cửa kén chồng Hết duyên bán quán ngồi trông bộ hành
-Còn duyên đóng cửa kén chồng Hết duyên mở cửa gọi ông ăn mày
-Còn duyên đóng cửa kén chồng Hết duyên ngồi gốc cây hồng nhặt hoa
Còn duyên kẻ đón người đưa
Không duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh Còn duyên kén cá chọn canh
Hết duyên cặn bã dưa hành cũng nhai
-Còn duyên kén cá chọn canh Hết duyên củ ráy, củ hành cũng vơ
Còn duyên kén những trai tơ
Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng
+ Cách thứ ba: Lấy dòng thơ đầu mang ý nghĩa khái quát chung cho cả bài để đặt tên cho mẫu đề
Ví dụ: Mẫu đề “Bao giờ cho đến tháng ba” (hoặc “Bao giờ cho đến tháng mười”), mẫu đề “Trên rừng ba mươi sáu thứ chim”,...
+ Cách thứ tư: Lấy nhóm chữ đầu của bài ca kết hợp với ý nghĩa vừa khái quát vừa cụ thể của những bài ca trong nhóm (có chung hình thức, nội dung) để đặt tên cho mẫu đề
Ví dụ: Mẫu đề “Đôi ta là một đôi như đã định”, mẫu đề “Đôi ta không thỏa nguyện” mà chúng tôi đã dẫn ở trên.
Cần nói thêm rằng trong kho tàng ca dao phong phú của người Việt, tập hợp những bài ca có cùng hình thức và nội dung thể hiện vào một mẫu đề đã
khó, đặt tên cho mỗi mẫu đề lại càng khó hơn. Những phân tích như trên của chúng tôi chỉ là những gợi ý phương hướng để tiếp tục nghiên cứu mở rộng.
2.5. Vận dụng công thức truyền thống để tìm hiểu mẫu đề
Ca dao đa dạng về nội dung, hình thức. Do đó, để xác định được công thức truyền thống thì phải dựa vào nhiều yếu tố. Thơng thường, để nhận dạng cơng thức truyền thống, người ta dựa vào:
+ Sự lặp đi lặp lại ngôn ngữ
Dựa vào các từ, nhóm từ giống (gần giống) nhau lặp đi lặp lại trên các dòng của các lời ca dao khác nhau như: “Ai đi...”, “Ai về...”, “Ai về nhắn...”, “Ai xui...”, “ Miếng trầu”, “Chiều chiều...”,... để nhận dạng cơng thức truyền thống.
Ví dụ: “Ai về giã gạo ba giăng / Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm”, “Ai về Giồng Dứa qua truông / Gió day bông sợi, bỏ buồn cho em”, “Ai về Hà Tĩnh thì về / Mặc lụa chợ Hạ, uống nước chè Hương Sơn” / Ai về Hà Thủy xứ Duồng / Cho tôi nhắn gửi một nguồn thơ duyên”, “Ai về Hậu Lộc Phú Điền / Nhớ đây bà Triệu trận tiền xung phong”.
Và: “Ai về nhắn họ Hi Hòa / Nhuận năm sao chẳng nhuận và trống canh”, “Ai về nhắn hỏi cô Ba / Năm nay mười tám hay là đôi mươi?”, “Ai về nhắn khách biên thiềm / “Hỏi thăm đá luộc đã mềm hay chưa?”, “Ai về nhắn nhủ có hay / Có thương anh, thì đợi cho đầy ba đông”, “Ai về nhắn nhủ chúa nhà / Có nhớ người cấy hay là bỏ quên?”, “Ai về nhắn nhủ mẹ cha / Mua heo thì trả, trường ba con hỏng rồi”, “Ai về nhắn nhủ ông câu / Cá ăn thì giật để lâu mất mồi”, “Ai về nhắn nhủ ông sư / Đừng nhang khói nữa mà hư mất đời”, “Ai về nhắn với bà cai / Giã gạo cho trắng, đến mai dâu về”, “Ai về nhắn với bạn nguồn / Mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên”, “Ai về nhắn với ông câu / Cá ăn thì giật để lâu hết mồi”, “Ai về nhắn với quan Đề / Bình Tây
chẳng được, cứ kéo quân về hại dân”, “Ai về nhắn với quan Thượng / Bình Tây sát tả để dọn đường vua ra”,…
Hay: “Ai xui ai khiến bất nhơn / Tôi nay gặp bạn thương hơn vợ nhà”, “Ai xui ai khiến trong lòng / Mau chân nhạy miệng mắc lòng gian nan”, “Ai xui anh lấy được mình / Để anh vun xới ruộng tình cho xanh / Ai xui mình lấy được anh / Bõ công bác mẹ sinh thành ra em”, “Ai xui đất thấp trời cao / Để cho tôi đứng, tôi gào hết hơi”, “Ai xui em có má hồng / Để người quân tử chưa trông đã thèm”, “Ai xui em lấy học trò / Thấy nghiên thấy mực những lo mà gầy”, “Ai xui má đỏ hồng hồng / Để anh nhác thấy đem lòng thương yêu”, “Ai xui tôi đến chốn này / Trồng hoa hoa héo, trồng cây cây tàn”,...).
-“Miếng trầu ai rọc, ai têm / Miếng cau ai bửa mà mềm rứa ai”, “Miếng trầu anh têm vừa vội / Miếng cau anh bửa vừa đôi vợ chồng”, “Miếng trầu ăn một trả mười / Ăn sao cho được một người như em”, “Miếng trầu ăn nặng bằng chì / Ăn đi thì hết, biết lấy gì trả ơn”, “Miếng trầu ăn nặng bằng chì / Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn?”, “Miếng trầu ăn nặng bằng chì / Ăn thì đã vậy, lấy gì trả ơn”, “ Miếng trầu ăn ngọt như đường / Đã ăn lấy của phải thương lấy người”, “Miếng trầu của đáng là bao / Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng”, “Miếng trầu đã nhẹ như bông / Mời chàng cầm lấy cho lòng được yên”, “Miếng trầu để đĩa buông ra / Có cau có rễ, lòng đà có vôi”, “Miếng trầu em đệm hoa nhài /Miếng cau em bổ có mười hai đạo bùa”, “Miếng trầu em rọc, em têm / Đã tròn như nhộng, lại mềm như dưa”, “Miếng trầu em têm bỏ đĩa con rồng / Trước mời thầy mẹ, sau vợ chồng ta ăn”, “Miếng trầu là miếng trầu cay /Làm cho bể ải khi đầy khi vơi”, “Miếng trầu là miếng trầu xanh / Có đôi con rối chạy quanh miếng trầu”, “Miếng trầu nhả bã quăng đi / Anh còn tiếc mãi huống chi cô nàng”, “Miếng trầu nỏ đáng bao lăm / Ăn rồi nhả bã tiếng tăm để đời”, “Miếng trầu thật tay em têm /
Trầu phú, trầu quý, trầu nên vợ chồng”, “ Miếng trầu ai rọc, ai têm / Miếng cau ai bổ mà nên vợ chồng”,...
+ Sự lặp đi lặp lại của các dòng thơ giống (gần giống) nhau
-Lặp lại dòng “Ai kêu.... bên sông”
(“Ai kêu ai hú bên sông / Tôi đang nấu nướng cho chồng tôi ăn”, “Ai kêu ai hú bên sông?/ Tôi đang sắm sửa cho chồng xuống ghe”, “Ai kêu léo nhéo bên sông / Tôi đương vá áo cho chồng tôi đây”,...).
-Lặp lại dòng “Ai về em (tôi) gửi...”
(“Ai về em gửi bức thư / Hỏi người bạn cũ, bây giờ nơi nao”, “Ai về tôi gửi bức thư / Cô Tám ở lại, cô Tư lấy chồng”, “Ai về em gửi bức tranh / Có con chim sáo đậu nhành lan chi”, “Ai về tôi gửi buồng cau / Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy”, “Ai về tôi gửi đôi giày / Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi”,…)
- Lặp lại dòng “Bắc thang lên hỏi ông…”
(“Bắc thang lên hỏi ông Trời /Của chàng cho thiếp liệu đòi được chăng?”, “Bắc thang lên hỏi ông Trăng / Của chàng cho thiếp nói năng thế nào?”, “Bắc thang lên hỏi ông Trời / Những tiền cho gái có đòi được không”,…) .
- Lặp lại dòng “Bấy lâu vắng mặt khát khao”
(“Bấy lâu vắng mặt khát khao / Bây giờ thấy mặt muốn cào mặt ra”, “Bấy lâu vắng mặt khát khao / Bây giờ thấy mặt muốn trao lạng vàng”, “Bấy lâu vắng mặt khát khao / Bây giờ thấy mặt tính sao hỡi tình”, “Bấy lâu vắng mặt khát khao / Giờ đây thấy mặt mừng sao hỡi mừng”,…).
- Lặp lại dòng “Chiều chiều ra đứng bờ…”
(“Chiều chiều ra đứng bờ ao / Nước kia không khát, khát khao duyên chàng”, “Chiều chiều ra đứng bờ ao / Tay vin cành quế, tay trao lượng vàng”, “Chiều chiều ra đứng bờ biền / Nhện giăng tơ đóng, cảm phiền thương em”,