- Thái độ tân tâm với nghề, tích cực học hỏi, kết nối nâng cao kiến thức liên quan tới CTXH nói chung và CTXHN nói riêng: để kích thích và phát triển, đáp ứng nhu cầu hỗ trợ, can thiệp thông qua phương pháp CTXHN, đòi hỏi người quản lý cần có thái độ tận tâm với nghề, luôn coi các đối tượng TEMC là mối quan tâm hàng đầu. Luôn tích cực có các hoạt động giúp đội ngũ NVCTXH tại cơ sở được tham gia các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về CTXHN, có các hoạt động đánh giá, kiểm tra định kỳ về hoạt động can thiệp CTXHN của đội ngũ NVCTXH.
2.4.4. Chính sách và cơ sở vật chất
Ngoài các yếu tố trên thì yếu tố về chính sách và cơ sở vật chất cũng ảnh hưởng tới các hoạt động CTXHN. Hiện nay, chính sách về tiền lương cho NVCTXH tại các cơ sở chăm sóc TEMC nói chung vẫn chưa tương xứng với khối lượng công việc mà đội ngũ NVCTXH thực hiện. Ngoài thời gian làm hành chính, NVCTXH phải giải quyết các công việc liên quan tới TEMC vào bất cứ thời gian nào trong ngày. Do đó, nếu khối lượng không việc quá nhiều trong khi mức lương chưa đảm bảo được cho cuộc sống thì sẽ ảnh hưởng tới hoạt động chăm sóc trẻ cũng như việc hỗ trợ trẻ bằng phương pháp CTXHN.
Để tổ chức được các hoạt động CTXHN tốt và phù hợp với từng nhóm trẻ, đòi hỏi cần có không gian, các trang thiết bị hỗ trợ phù hợp. Ví dụ, nếu là nhóm giải trí, đòi hỏi cần có không gian rộng, cùng các trang thiết bị để tổ chức các hoạt động; nếu là nhóm trị liệu, cần có các máy móc, bộ công cụ test cùng với đội ngũ NVCTXH có kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về các vấn đề liên quan; nếu là nhóm hướng nghiệp, cần có không gian phòng với các hình ảnh, mô hình về các loại hình nghề nghiệp… Vì vậy, cơ sở vật chất được xem làm một yếu tố quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ tới sự sự thành công của hoạt động trợ giúp CTXHN.
2.5. Quan điểm của Đảng, Nhà nước, các chính sách pháp luật liên quan tới trẻ em mồ côi
2.5.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước liên quan tới trẻ em mồ côi
Hoạt động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung và TEMC nói riêng là đường lối, sợi chỉ xuyên suốt quá trình dựng nước và giữ nước của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa ngày nay.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016) đã nhấn mạnh: “Phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân… bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; công tác gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ” [150].
Có thể bạn quan tâm!
- Lý Luận Về Công Tác Xã Hội Nhóm Đối Với Trẻ Em Mồ Côi
- Hoạt Động Tuyên Truyền, Nâng Cao Kiến Thức (Phòng Ngừa)
- Các Lý Thuyết Ứng Dụng Trong Công Tác Xã Hội Nhóm Đối Với Trẻ Em Mồ Côi
- Số Lượng Cán Bộ, Nhân Viên Làm Việc Tại Các Làng Trẻ Em Sos, Birla Và Ttbtxh4
- Mức Độ Trẻ Dễ Dàng Làm Quen Với Các Bạn Mới
- Tần Suất Temc Tham Gia Vào Nhóm Giáo Dục Kỹ Năng Sống
Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.
Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 cũng nhấn mạnh: “Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước….củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở trợ giúp xã hội, phát triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ em mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão” [151].
Từ quan điểm của Đảng, Nhà nước trong hoạt động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, TEMC, các cá nhân, tổ chức, cơ sở có thể làm căn cứ xây dựng mục tiêu, chiến lược phát triển của Trung tâm, Làng trẻ, có những định hướng phù hợp trong hoạt động chăm sóc, giáo dục và hỗ trợ TEMC. Cũng từ những quan điểm chỉ đạo đó, nhiều cơ sở chăm sóc TEMC đã và đang ngày càng hoàn thiện các cơ chế về hỗ trợ, chăm sóc, đáp ứng các nhu cầu cơ bản cho TEMC cũng như phát huy vai trò trợ giúp, kết nối, huy động nguồn lực giúp trẻ trưởng thành và hòa nhập xã hội.
2.5.2. Các chính sách, pháp luật liên quan tới trẻ em mồ côi
Bên cạnh các quan điểm chỉ đạo mang tính chiến lược của Đảng, Nhà nước ta về hoạt động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung và TEMC nói riêng, các chính sách, luật pháp cũng đã và đang được hoàn thiện phù hợp với thực tiễn và và nhu cầu của trẻ em nói chung và TEMC nói riêng.
Điều 14, Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1946 quy định: “Trẻ em được săn sóc về mặt giáo dưỡng” và Điều 15: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí... học trò nghèo được Chính phủ giúp” . Tiếp đó, Hiến pháp năm 1992, Điều 65 khẳng định: “Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”.
Các chính sách, pháp luật đã tạo ra được hành lang pháp lý nhằm bảo vệ TEMC thể hiện trong một loạt các Luật, Thông tư, Nghị định: Luật trẻ em số
102/2016/QH13 ban hành ngày 05/04/2016 của Quốc Hội đã quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có TEMC; Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngay 13/04/2007 của Chính phủ quy định về Chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. Nghị định đã chỉ rõ các đối tượng được hưởng các chính sách của Nhà nước trong đó có TEMC; Nghị định 19/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm 2011 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi. Với Nghị định này, việc các cá nhân có nhu cầu nhận nuôi con nuôi cần đảm bảo các yêu cầu và tuân thủ theo đúng quy định của Luật, tránh tình trạng lạm dụng TEMC để trục lợi.
Quyết định số 112/QĐ-TTg ngày 22/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2021-2030. Mục tiêu chung của đề án là tiếp tục đẩy mạnh phát triển công tác xã hội tại các ngành, các cấp, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo từng giai đoạn; đảm bảo nâng cao nhận thức của toàn xã hội về công tác xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội trên các lĩnh vực, đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ công tác xã hội của người dân, hướng tới mục tiêu phát triển xã hội công bằng và hiệu quả. Đề án đã mang lại những dịch vụ tốt nhất cho những đối tượng yếu thế trong xã hội, đặc biệt là TEMC, nhất là những trẻ đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở chăm sóc trẻ em mồ côi trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Thông tư số 34/2010–TTBLĐTBXH ngày 08/11/2010 của Bộ Lao động- Thương binh Xã hội quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức CTXH; Thông tư số 04/2011/TT-BLĐTBXH ngày 25/02/2011 của Bộ lao động – Thương binh và xã hội quy định tiêu chuẩn chăm sóc tại các cơ sở bảo trợ xã hội; Thông tư Liên tịch số 09/2013/TTLT/BLĐTBXH-BNV ngày 10/0/2013 giữa Bộ lao động–Thương binh & Xã hội và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH… Với những quy định cụ thể trong các Thông tư trên, đòi hỏi các cơ sở chăm sóc TEMC cần chuẩn hóa đội ngũ NVCTXH, cũng như nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ NVCTXH đang làm việc tại các cơ sở chăm sóc trẻ em. Cũng theo Thông tư, đội ngũ NVCTXH đã có ngạch viên chức như những ngành nghề khác trong xã hội, được cộng đồng ghi
63
nhận những nỗ lực. Bên cạnh đó, việc quy định ngạch viên chức, cũng như những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ sở chăm sóc trẻ em nhằm đảm bảo tối đa những quyền lợi của TEMC cũng như việc thực thi các chính sách được tốt nhất. Tại Hà Nội, ngày 16/11/2011, UBND Thành phố Hà Nội ban hành Quyết định 34/2011/QĐ-UBND quy định mức trợ cấp xã hội hàng tháng cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống tại cộng đồng do xã, phường, thị trấn quản lý. Theo đó, mức chuẩn trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội là 350.000 đồng/tháng đối với hệ số 1.0. Đối với nhóm TEMC cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng; TEMC cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích theo quy định tại Điều 78 của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; Trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành hình
phạt tù tại trại giam, không còn người nuôi dưỡng hệ số áp dụng là 2.0.
Đối với chính sách hỗ trợ giáo dục cho TEMC không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, UBND thành phố Hà Nội quy định: trường hợp mồ côi cả cha và mẹ; mồ côi cha hoặc mẹ (nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha bị mất tích hoặc không đủ khả năng nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật hiện hành); bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng và không có người thân thích để nương tựa thì được miễn 100% học phí và được cấp một lần 120.000 đồng/năm/học sinh để mua sách vở, đồ dùng học tập.
Ngoài ra, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 67/KH-UBND về thực hiện "Đề án chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ bị bỏ rơi, trẻ em nhiễm HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2014 - 2020". Theo đó, mục tiêu đến năm đến năm 2020, có ít nhất 5 cơ sở bảo trợ xã hội thực hiện mô hình dạy nghề gắn với việc làm cho trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; có ít nhất 2 cơ sở bảo trợ xã hội công lập cung cấp dịch vụ chăm sóc, phục hồi chức năng, giáo dục hòa nhập bán trú cho trẻ em khuyết tật; xây dựng thí điểm 01 mô hình Ngôi nhà tạm lánh để tiếp nhận, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa…
Như vậy, việc đưa ra các Nghị định, chính sách dành cho trẻ em nói chung và TEMC nói riêng đã và đang được cụ thể hóa thành hành động trong cả nước, đặc
biệt là trên địa bàn thành phố Hà Nội. Các chính sách đó sẽ là hàng rào pháp lý bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của TEMC, đặc biệt là những TEMC đang sống trong các cơ sở chăm sóc trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội.
2.6. Khung phân tích lý thuyết
Khung phân tích dưới đây thể hiện rõ các nội dung cần nghiên cứu của luận án.
Các yếu tố ảnh hưởng tới hoat động CTXH nhóm đối với TEMC
Yếu tố từ lãnh đạo quản lý
Yếu tố từ nhân viên xã hội
Yếu tố từ TEMC
Yếu tố từ các chính sách
Yếu tố từ cơ sở vật chất
CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ
EM MỒ CÔI TỪ TIỄN CÁC CƠ SỞ CHĂM SÓC TRẺ EM TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Hoạt động giáo dục kỹ năng sống
Hoạt
động
hướng nghiệp
Hoạt động
can thiệp
Hoạt động tuyên truyền, nâng cao
kiến thức
Một số hoạt động công tác xã hội nhóm đối với TEMC
Sơ đồ 2.1. Khung phân tích lý thuyết
Tiểu kết chương 2
Trẻ em mồ côi là đối tượng không chỉ cần được đáp ứng các nhu cầu cơ bản mà cần được đáp ứng những khác như: nhu cầu hướng nghiệp; nhu cầu được học kỹ năng sống... Hơn nữa, trẻ em mồ côi là đối tượng có những đặc điểm tâm – sinh lý khá nhạy cảm như: mặc cảm, tội lỗi tự trách bản thân; trẻ hay giận dữ và có ác cảm; tự ti; trẻ khó khăn diễn tả cảm xúc bằng lời; không nói thật... Chính vì vậy TEMC rất cần sự hỗ trợ thông qua phương pháp công tác xã hội nhóm của đội ngũ nhân viên công tác xã hội.
Nhiều hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi được thực hiện, điển hình như: hoạt động giáo dục kỹ năng sống; hoạt động hướng nghiệp; hoạt động tuyên truyền nâng cao kiến thức; hoạt động can thiệp, trị liệu. Để thực hiện tốt được các hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi cần vận dụng tiến trình công tác xã hội nhóm và tuân thủ đúng quy tắc và các bước cũng như cần các yếu tố liên quan tới chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó, cần chú ý tới các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi như: yếu tố từ phía người quản lý, nhân viên công tác xã hội, từ phía trẻ, các yếu tố chính sách và cơ sở vật chất.
Trong chương 2, luận án vận dụng một số lý thuyết vào nghiên cứu như: thuyết nhu cầu, thuyết sinh thái, thuyết xung đột xã hội, thuyết học tập xã hội nhằm hỗ trợ việc giải quyết các vấn đề liên quan tới hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em mồ côi.
Chương 3
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM MỒ CÔI TẠI CÁC CƠ SỞ CHĂM SÓC TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
3.1.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
Hiện nay, thành phố Hà Nội có gần 120 cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng TEMC (các cơ sở do nhà nước quản lý, các cơ sở do các tổ chức Phi chính phủ quản lý, các cơ sở do các cá nhân tự thành lập và các cơ sở tôn giáo). Tuy vậy, chỉ có khoảng 10 cơ sở nuôi dưỡng và chăm sóc TEMC với số lượng từ 10 trẻ trở lên và trong đó chỉ có khoảng 3-4 cơ sở có số lượng trẻ từ 9 tới 16 tuổi chiếm tỷ lệ cao đó là TTBTXH 4, Làng trẻ em SOS Hà Nội và Làng trẻ em Birla Hà Nội. Do vậy, tác giả đã lựa chọn 3 cơ sở trên để tiến hành khảo sát nhằm đánh giá thực trạng hoạt động CTXHN tại các cơ sở cũng như những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động CTXHN, từ đó đề xuất và đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện hoạt động CTXHN.
Làng trẻ em Birla Hà Nội
Làng trẻ Birla có địa chỉ tại số 4, đường Doãn Kế Thiện, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội với diện tích khoảng 9.457m2. Là một trong những đơn vị thuộc Sở Lao động Thương binh & Xã hội và có vị trí tại Trung tâm thành phố Hà Nội Làng hiện nay gồm có khu làm việc của bộ máy quản lý và khu vực sống, sinh hoạt ngoại khoá của trẻ bao gồm: Nhà mẫu giáo N; nhà nuôi trẻ C1, C2, C3, C4 với quy mô nuôi trẻ hiện nay khoảng 30 – 31 trẻ/nhà, mỗi nhà có hai mẹ. Ngoài ra, Làng trẻ thiết kế các khu vực vui chơi, giải trí cho trẻ khá phong phú và phù hợp [4].
Chức năng, nhiệm vụ của Làng trẻ
Là một đơn vị hành chính sự nghiệp trực thuộc Sở Lao Động Thương Binh & Xã hội Hà Nội. Làng trẻ Birla Hà Nội có chức năng nuôi dưỡng, quản lý và giáo dục TEMC có hoàn cảnh khó khăn có hộ khẩu tại Hà Nội giúp trẻ phát triển bình thường.
Nhiệm vụ Làng đặt ra bao gồm: tổ chức chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đảm bảo cho trẻ được theo học ở mọi cấp học khi các em tới tuổi đi học, chịu trách nhiệm đóng góp các khoản chi phí cho trẻ ở trường học;
phối hợp chặt chẽ giữa Làng và nhà trường, chính quyền địa phương nơi trẻ sinh ra, người thân cũng như các tổ chức đoàn thể xã hội trong công tác quản lý, giáo dục trẻ phát triển toàn diện và hoàn thiện nhân cách; trong quá trình sống tại Làng, trẻ được tạo điều kiện học nghề tại Làng, hoặc gửi đi các trung tâm dạy nghề bên ngoài theo khả năng của Làng; đảm bảo sức khỏe cho trẻ trong khả năng tốt nhất, những trường hợp ngoài khả năng của Làng sẽ được chuyển tới các trung tâm y tế, các bệnh viện để chữa trị kịp thời; tổ chức tốt công tác tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích nguồn kinh phí của nhà nước, các nguồn tài trợ của các cơ quan, tổ chức, gia đình, và cá nhân làm từ thiện trong và ngoài nước [4].
Tính tới tháng 12 năm 2017, Làng trẻ nuôi dưỡng và chăm sóc 78 TEMC, trong đó chủ yếu là các em trong độ tuổi cấp 2 và cấp 3. Làng trẻ hiện nay có tổng số cán bộ, nhân viên là 29 người, trong đó có 08 nhân viên có chuyên môn công tác xã hội; 16 nhân viên tốt nghiệp các ngành khoa học tự nhiên; 05 nhân viên có trình độ văn hóa dưới lớp 12 [4].
Về thành phần gia đình:
Đa số các em được nhận vào nuôi tại Làng đều là TEMC trong đó: TEMC cả cha và mẹ (7 trẻ); TEMC cha còn mẹ (38 trẻ); TEMC mẹ còn cha (27 trẻ); trẻ còn cha mẹ nhưng cha mẹ đang trong thời gian thi hành án (3 trẻ); nguyên nhân khác (3 trẻ) [4].
Làng trẻ em SOS Hà Nội
Làng trẻ em SOS Hà Nội thuộc địa bàn phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội với tổng diện tích 19.000m2 Làng trẻ em SOS Hà Nội là một trong 2 Làng trẻ em SOS đầu tiên được xây dựng theo Hiệp định ký giữa Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Làng trẻ em SOS Quốc tế [3].
Mục tiêu và nhiệm vụ của Làng trẻ: giúp các TEMC được sống trong các gia đình, được yêu thương, đi học và được đáp ứng một số nhu cầu thiếu hụt. Làng trẻ hướng tới thực hiện nhiệm vụ nhận, chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em; hướng nghiệp, tư vấn, tìm kiếm việc làm; tư vấn... [3].
Chức năng của Làng trẻ em SOS: đón nhận, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, hướng nghiệp cho TEMC không nơi nương tựa trên địa bàn Hà Nội và các tỉnh lân cận. Những trẻ em được tiếp nhận vào Làng theo quy định của Tổ chức SOS, có sự hướng dẫn của Sở LĐTB và XH cùng văn phòng điều hành các tổ chức SOS Việt Nam [3].