Số Liệu Thống Kê Cơ Sở Lưu Trú – Nhà Hàng Tại Huyện Vĩnh Lộc

Nàng xô mạnh tới mức mười đầu ngón tay lõm sâu vào mặt đá, nhưng tường thành không hề rung chuyển. Chẳng còn cách nào khác, nàng đành đập đầu vào tường đá để chết theo chồng.

Dân địa phương cảm thương người phụ nữ tiết nghĩa, lập miếu thờ ngay bên cửa Đông thành An Tôn. Miếu thờ quy mô nhỏ nhưng qua các triều đại đều nổi tiếng, đến năm 1903 được vua sắc phong “Tiết liệt khả phong”. Cũng nhân dịp này, Vương Duy Trinh (Tổng đốc Thanh Hóa lúc bấy giờ) cho quyên tiền dựng nên ngôi đền đẹp đẽ, thay cho miếu thờ trước đó, đồng thời cho dựng bia tại đền ghi lại sự tích Cống Sinh- Bình Khương.

Với ý nghĩa lịch sử văn hóa quan trọng trên, ngày 24 tháng 4 năm 1995, Sở Văn hóa – Thông tin Thanh Hóa đã ra quyết định số 119/VHQĐ, công nhận đền thờ - By kí nàng Bình Khương là Di tích lịch sử Văn hóa.

Đền thờ Trần Khát Chân

Đền thờ Trần Khát Chân được dựng bên sườn Đông núi Đún, nên dân làng thường gọi là đền Đún, thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

Ngoài giá trị về lịch sử văn hóa, đền thờ Trần Khát Chân còn có giá trị về kiến trúc nghệ thuật với đường nét chạm trổ. Các bước đại tự, hoành phi, câu đối, hương án, đồ thờ,…chạm khắc nghệ thuật tinh xảo. Đền có nhà hậu cung (chính tấm), hai gian xây cuốn vòm. Theo truyền lại, ở hậu cung là nơi có mộ táng Trần Khát Chân, bên trên ngôi mộ là một bệ thờ, gọi là “thượng sàng, hạ mộ”. Trên bàn thờ chính giữa đặt long ngai, bên trong có thánh vị, trên ngai khoác tấm áo gấm vàng, có bối tử màu đỏ, mũ và đai chầu cùng đôi hia đều có màu đen viền vàng.

Đền thờ Trần Khát Chân được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 2011. Hàng năm (nhằm ngày 24 tháng 4 âm lịch), lễ hội Trần Khát Chân được long trọng tổ chức, thu hút nhiều nhân dân và du khách thập phương tham gia.

Đền Phương Nhai (đền Tam Tổng)

Ngôi đền mang tên Phương Nhai, theo tên của ngôi làng dựng đền. Hiện nay, đền nằm trên đất khu phố Mới, xã Vĩnh Tiến, cách cửa Nam thành nhà Hồ khoảng hơn 500m về hướng Nam. Ngôi đền cũng là nơi thờ Thượng tướng Trần Khát Chân, một vị tướng giữ hai vệ Kim Ngô và Long Hổ.

Truyền thuyết kể rằng: Lúc Trần Khát Chân bị hành quyết, trời bỗng nhiên sập xuống và tối mịt. Trần Khát Chân bị chém đầu, đầu rơi xuống đất, Khát Chân nhặt lắp lấy đầu vào rồi lên ngựa phóng như bay theo đường Hoa Nhai lên cổng Nam thành An Tôn. Đến khu vực Cồn Xấm, ngài gặp một bà lão bán nước vối bên đường. Khát Chân hỏi bà: “Bà có thấy ai bị chặt đầu còn lắp đầu vào rồi lên ngựa chạy được không?”. Bà lão trả lời: “Tôi nay đã 84 tuổi rồi, chỉ thấy ông là Thánh mới lắp đầu mà chạy được”. Bà lão vừa dứt lời thì cả thân và đầu Trần Khát Chân rơi xuống đất (nơi bà lão bán nước thuộc khu vực Cồn Xấm). Con ngựa của Trần Khát Chân cưỡi cùng một con ngựa khác chạy theo, cả hai con lồng lên rẽ sang trái, qua cánh đồng làng Thổ Sơn (nay là làng Thổ Phụ) xuống bến Quân (bến dành riêng cho quân lính), cả hai con ngựa lao ra giữa dòng sông Mã thì hóa. Năm đó, nước sông Mã lên to, bỗng nhiên hai con ngựa hóa nổi lên một gò bãi rộng (có tới trên 10ha), dân làng gọi là Gò Ngựa.

Sau này, các kỳ hội đảo hoặc ngày kỵ của ngài có tổ chức thi bơi thuyền đều phải bơi quanh Gò Ngựa ba vòng. Nơi Trần Khát Chân bị chém đầu dân làng lập đền Đún, chỗ thân và đầu Trần Khát Chân rơi dân làng lập đền thờ gọi là đền Phương Nhai (sau này mới có tên là đền Tam Tổng) để thờ Trần Khát Chân.

Ngày 11 tháng 2 năm 1993, đền Tam Tổng được công nhận Di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật.

Nhà cổ của ông Phạm Ngọc Tùng (Tây Giai)

Ông Phạm Ngọc Tùng là trưởng tộc dòng họ Phạm ở làng Tây Giai xã

Vĩnh Tiến, hiện đang ở ngôi nhà cổ do ông bà để lại. Ngôi nhà cổ cách thành nhà Hồ khoảng vài trăm mét. Đất của làng Tây Giai, trước kia cũng là đất của động An Tôn. Vào cuối thời Trần, mảnh đất này lác đác đã có dân sinh sống. Năm 1397, xây dựng thành An Tôn, nhà Hồ xây dựng đường phố, chợ, đặt ra các phường (trong đó có phường Lan Nhai, nay là làng Tây Giai). Từ khi hình thành phường Lan Nhai, rất nhiều dòng họ đã tụ tập về đây sinh sống. Cho đến khi bị quân Minh xâm lược, dân buôn bán và thợ thủ công ở đây đã phải chạy đi nơi khác, số còn lại chủ yếu là dân làm ruộng, làng Tây Nhai ra đời.

Năm 1428, Lê Lợi đại thắng quân Minh. Các dòng họ khắp nơi lại đến Tây Nhai sinh cơ lập nghiệp. Cụ tổ dòng họ Phạm của ông Phạm Ngọc Tùng cũng đến ở làng Tây Nhai từ năm 1600. Ngôi nhà cổ hiện tại được xây dựng năm Canh Ngọ, đời Gia Long thứ 9 (1810). Nhà gồm 7 gian, trong đó 3 gian nhà ngoài, hai bên là buồng, mỗi buồng 2 gian. Chiều dài của ngôi nhà là 20m, chiều rộng 8,20m. Nhà làm theo kiểu chồng giường, có quá giang, kẻ chuyền. Gỗ làm nhà thuộc loại tốt, có lim, sến, táu, xoan,… Mái lợp ngói mũi, cửa bức bàn (3 gian ngoài gồm 12 cánh cửa). Đặc biệt nhà được trạm trổ tinh xảo với long, ly, quy, phượng, tùng, cúc, trúc, mai,…

Ngôi nhà ông Phạm Ngọc Tùng vừa có giá trị về kiến trúc, vừa được các thế hệ trong gia đình gìn giữ tốt, hiện còn nguyên vẹn và trở thành tài sản Quốc gia. Từ năm 2000 – 2003, lãnh đạo Bộ Văn hóa – Thông tin đã cho phép Cục Bảo tồn, Bảo tàng (nay là cục Di sản văn hóa), phối hợp với đối tác Nhật Bản (đối tác chính là Trường Đại học Nữ Chiêu Hòa) thực hiện dự án tăng cường công nghệ bảo tồn và tu bổ nhà ở truyền thống ở Việt Nam do chính phủ Nhật Bản tài trợ. Nội dung chính của dự án là tiến hành tu bổ 6 ngôi nhà ở truyền thống (nhà dân) tại 6 địa phương là Bắc Ninh, Nam Định, Quảng Nam, Đồng Nai, Tiền Giang, Thanh Hóa. Ngôi nhà của ông Phạm Ngọc Tùng cũng nằm trong dự án này. Năm 2002, ngôi nhà của ông Phạm Ngọc Tùng được trùng tu lần thứ nhất và được UNESCO công nhận và phát bằng năm 2004. Hiện nay, ngôi nhà cũng là một trong những điểm đến hấp

dẫn khách du lịch mỗi lần đến với khu di tích thành nhà Hồ.

Ngoài các di tích, danh thắng kể trên, vùng đệm khu di tích thành nhà Hồ còn được nhắc đến nhiều với những địa danh như Động Hồ Công, danh thắng động Eo Lê, chùa Giáng (chùa Tường Vân), đình Hồ Nam, nghè Thọ Đồn,… Mong rằng, với tài nguyên du lịch dồi dào, khu di tích thành nhà Hồ nói riêng và vùng đệm nói chung sẽ thu hút ngày càng nhiều du khách đến thăm và yêu mến.

2.1.4. Cơ sở hạ tầng du lịch

2.1.4.1. Cơ sở hạ tầng nói chung

Giao thông:

Ngày nay, Vĩnh Lộc có hai tuyến quốc lộ chạy qua. Quốc lộ 217 từ Quốc lộ 1A (Đò Lèn, Hà Trung) đi Na Mèo có 33km chạy qua huyện Vĩnh Lộc. Quốc lộ 45 từ thành phố Thanh Hóa đi Thạch Thành – Rịa (Ninh Bình) có 12,5km chạy qua Vĩnh Lộc. Chính vì thế, để đến với thành nhà Hồ, du khách có thể đi bằng nhiều hình thức giao thông như:

- Đường bộ: Từ thành phố Thanh Hóa, theo quốc lộ 45 khoảng 46km về hướng Tây Bắc, du khách sẽ đến với thành nhà Hồ. Từ quốc lộ 1A đoạn Đò Lèn (Hà Trung), du khách đi 30km về hướng Bắc cũng sẽ đến được với khu di tích.

- Đường hàng không: Cảng hàng không Thọ Xuân (Tên cũ là sân bay quân sự Sao Vàng, Thọ Xuân, Thanh Hóa) đã chính thức được đưa vào hoạt động từ 5/2/2013. Từ sân bay Thọ Xuân, trải qua cung đường hơn 30km theo quốc lộ 45 hướng Thọ Xuân – Yên Định – Vĩnh Lộc, du khách đã tới được điểm tham quan. Hiện tại, có 3 hãng Hàng không đang khai thác các chuyến bay đến Thanh Hóa, cụ thể như sau:


Hãng Hàng không

Điểm đến

Tần suất

Vietnam Airline

Tp. Hồ Chí Minh

2 chuyến/ ngày

Jetstar Pacific Airlines

Tp. Hồ Chí Minh

2 chuyến/ ngày

Tp. Buôn Mê Thuột

2 chuyến/ tuần

Vietjet Air

Tp. Hồ Chí Minh

1 chuyến/ ngày

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.

Xây dựng thương hiệu du lịch cho Di sản thế giới thành nhà Hồ ở Thanh Hóa - 7

Năm 2013, cảng hàng không Thọ Xuân phục vụ 90.000 lượt khách, năm 2014 phục vụ 160.000 lượt khách và dự kiến năm 2015 đạt 400.000 lượt khách.

- Đường sắt: Du khách có thể đi tàu hỏa và xuống ga Đò Lèn (Hà Trung) hoặc ga Thanh Hóa, tiếp tục bắt xe theo các cung đường bộ kể trên vào thành nhà Hồ.

- Giao thông công cộng: Các tuyến xe bus số 02, 08 phục vụ nhu cầu nhân dân theo tuyến đường Quốc lộ 45 và 217 chạy qua, cách di sản Thành Nhà Hồ khoảng 1km.

Nhìn chung, thành nhà Hồ cách khá xa trung tâm thành phố Thanh Hóa và các điểm tham quan nội tỉnh (Cách Sầm Sơn khoảng hơn 60km theo quốc lộ 45, cách suối Cá thần Cẩm Lương khoảng hơn 40km,…). Hơn nữa, chất lượng giao thông đường bộ có nhiều đoạn đã xuống cấp và xuất hiện nhiều ổ gà ảnh hưởng đến khả năng lưu thông của các phương tiện tham gia giao thông. Quốc lộ 45 chạy dọc theo trung tâm thị trấn Vĩnh Lộc nên lưu lượng giao thông hướng tới khu vực Thành Nhà Hồ lớn, ảnh hưởng không nhỏ tới di sản Thành Nhà Hồ và sự phát triển du lịch tương lai.

Hệ thống điện

Nguồn cấp điện: Lấy từ lộ 376 của trạm biến áp trung gian 110kv Hà Trung có công suất 2x25MVA và điện áp 110/35/10kv.

Lưới điện: 35kv – 10kv khu vực (hiện tại lưới điện trung thế Vĩnh Lộc sử dụng song song 2 cấp điện áp là 35kv và 10kv.

Trạm biến áp: Hiện tại trong giới hạn quy hoạch có tất cả 35 trạm biến áp. Trong đó có 1 trạm biến áp trung gian 35/10kv công suất 2x2.500KVA ở

trung tâm thị trấn, trạm núi Đún. Hệ thống trạm biến áp tiêu thụ trong khu vực quy hoạch gồm 34 trạm.

Hiện nay tại khu vực Thành Nhà Hồ (Nhà trưng bày và đón tiếp du khách) có 1 trạm biến áp công suất 400KVA phục vụ nguồn điện 3 pha riêng cho khu di sản thế giới Thành Nhà Hồ.

Hệ thống cấp thoát nước

Hiện tại, nước sinh hoạt chủ yếu cấp cho thị trấn Vĩnh Lộc và xã Vĩnh Thành. Các xã còn lại trong khu quy hoạch vẫn chưa được cấp nước sạch của nhà máy. Trạm cấp nước sạch được đặt tại xã Vĩnh Thành với công suất thiết kế là 250m3/ Ngđ hiện tại khai thác với công suất giai đoạn 1 là 1350m3/ Ngđ. Nguồn nước khai thác là nguồn nước ngầm từ hai giếng khoan tại chỗ (không có giàn mưa).

Đối với khu vực di sản nói riêng, hiện nay vẫn chưa có nguồn nước máy cung cấp.

Hệ thống thoát nước mưa và nước bẩn chủ yếu tập trung ở trung tâm thị trấn Vĩnh Lộc nằm trên trục đường quốc lộ 45, các xã còn lại nước mưa và nước bẩn tự thấm xuống đất hoặc chạy theo địa hình tự nhiên ra đồng ruộng và ao hồ xung quanh.

Nhìn chung, khu vực di sản thành nhà Hồ hiện nay chưa có nước sạch tiêu chuẩn (nước máy) để phục vụ nhân dân và khách du lịch. Nguồn nước hiện đang sử dụng chủ yếu là từ giếng khoan, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe người dân cũng như công tác phục vụ khách du lịch. Hệ thống chất thải cũng đang theo cơ chế tự hủy, tự ngấm vào lòng đất hoặc đi chung với nước mưa nên ảnh hưởng đến sức khỏe người dân cũng như môi trường tự nhiên của khu di tích và vùng phụ cận.

Hiện trạng vệ sinh môi trường

Hiện tại, rác thải rắn đã được thu gom xử lý tại nhà máy xử lý rác thải xã Vĩnh Hòa. Nguồn rác thải chủ yếu đến từ:

52

- Khu dân cư, các công trình công cộng

- Rác thải từ các nhà hàng, nhà nghỉ

- Rác thải trong các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp.

Bên cạnh đó, nước thải và nước mưa như đã nói ở trên, được thoát chung qua hệ thống mương nắp tấm đan. Trong khu dân cư, nước thải sinh hoạt được xử lý tại chỗ thông qua các bể phốt tự thấm, tự ngấm… Các khu còn lại, nước thải tự ngấm xuống đất và chảy ra các ao, hồ xung quanh.

Rác thải trong quá trình phục vụ tham quan tại thành nhà Hồ hàng ngày được thu gom tại khu vực Trung tâm. Tuy nhiên, xung quanh khu vực tường thành, nội thành và khu vực dân cư 3 làng cổ cạnh thành chưa được thu gom triệt để, làm ảnh hưởng đến môi trường.

Với hiện trạng vệ sinh môi trường như trên cũng như thực trạng xử lý rác thải, ít nhiều môi trường xung quanh khu vực di sản Thành nhà Hồ đã và đang bị đe dọa. Điều kiện vệ sinh môi trường, cơ sở vật chất của khu di sản còn thấp, nguy cơ ô nhiễm cao nếu không được chú trọng đầu tư, xử lý.

2.1.4.2. Cơ sở hạ tầng du lịch

Hiện nay, thành nhà Hồ vẫn còn là một điểm du lịch mới mẻ với cả du khách trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch tại khu di tích vẫn còn khá nghèo nàn và thiếu thốn.

Bên trong khu di sản, vẫn chưa có nhà đón tiếp khách, chưa có khuôn viên cây xanh tạo mỹ quan, bóng mát và đặc biệt là chưa có dịch vụ vận chuyển khách du lịch nối các điểm tham quan trong khu di tích,…. Đây cũng được xem là một trong những nguyên nhân chưa hấp dẫn và thu hút khách du lịch đến với khu di tích thành nhà Hồ.

Khu phụ cận, những cơ sở phục vụ khách du lịch chủ yếu là các hộ kinh doanh nhỏ, lẻ nằm dọc trục đường trung tâm huyện, cách khu vực nội thành khoảng 2-4km.

Theo thống kê năm đến năm 2014, số lượng cơ sở lưu trú, nhà hàng tại huyện Vĩnh Lộc cụ thể như sau:

Bảng 2.1: Số liệu thống kê cơ sở lưu trú – nhà hàng tại huyện Vĩnh Lộc


CƠ SỞ LƯU TRÚ


STT


Tên cơ sở


Địa chỉ


Điện thoại

Số phòng

Giá phòng

(VNĐ/ 01 ngày)

P.

Đơn

P. Đôi

P. Đơn

P. Đôi

1

Nhà khách huyện

Vĩnh Lộc

Khu III, thị trấn

Vĩnh Lộc

037.3870.299

06

10

700.000

220.000

2

Nhà khách Hùng

Thắng

Số nhà 55, khu II

thị trấn Vĩnh Lộc

037.3522.222

10

02

150.000

220.000

3

Khách sạn Tây Hồ

Khu III thị trấn

Vĩnh Lộc

037.3521.789

20

12

160.000

200.000

4

Nhà nghỉ Bình Linh

Khu I, thị trấn Vĩnh

Lộc

037.3521.964

02

08

140.000

200.000

5

Nhà nghỉ Thanh Sơn

Khu I, thị trấn Vĩnh

Lộc

0903.475.222

11

04

120.000

150.000


6

Nhà nghỉ Nam Thành

Phố Mới, xã Vĩnh

Tiến, huyện Vĩnh Lộc


0943.052.999


05


05


150.000


150.000

THÔNG TIN VỀ CÁC NHÀ HÀNG

STT

Tên nhà hàng

Địa chỉ

Điện thoại

Phục vụ

Suất ăn

1

Nhà hàng An Tôn

Khu I, thị trấn Vĩnh

Lộc

(037) 3522.988

Phục vụ trên

200 khách

Phục vụ theo nhu

cầu của quý khách

2

Nhà hàng Huy Còi

Phố Mới, xã Vĩnh

Tiến

(037) 3205.292

Phục vụ trên

250 khách

Phục vụ theo nhu

cầu của quý khách

3

Nhà khách huyện

Vĩnh Lộc

Khu III, thị trấn

Vĩnh Lộc

(037) 3870.299

Phục vụ gần 200

khách.

Phục vụ theo nhu

cầu của quý khách

4

Nhà hàng Phát Mùi

Khu III, thị trấn

Vĩnh Lộc

(037) 3870.846

Phục vụ gần 200

khách

Phục vụ theo nhu

cầu của quý khách

5

Nhà hàng Thành Hơn

Khu III, thị trấn

Vĩnh Lộc

(037) 3870.250

Phục vụ trên

160 khách.

Phục vụ theo nhu

cầu của quý khách

6

Nhà hàng Hoan Hoa

Quốc lộ 217, Vĩnh

Long, VL

0126 61 77 288

Phụ trách trên

160 khách

Phục vụ theo nhu

cầu của quý khách

[Nguồn: Ban quản lý Khu di sản Thành nhà Hồ]

Xem tất cả 122 trang.

Ngày đăng: 28/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí