Công bố thông tin tài chính trên báo cáo thường niên của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 2


DANH MỤC SƠ ĐỒ HÌNH VẼ


Sơ đồ 1. Quy trình nghiên cứu của luận án 19

Hình 1.1. Phân loại thông tin tài chính40

Hình 2.1. Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT tài chính của các DNPTCNY trên TTCK Việt Nam 105


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thị trường chứng khoán (TTCK) là một kênh huy động vốn dài hạn, hiệu quả cho nền kinh tế của các nước phát triển và các nước đang phát triển như Việt Nam. Bên cạnh kênh cho vay của các ngân hàng thương mại truyền thống, TTCK cũng đang đóng góp một phần không nhỏ vào việc cung cấp nguồn tài chính cho tăng trưởng kinh tế. Một thị trường tài chính ổn định trong đó có TTCK phát triển yếu tố quan trọng mang lại sự tăng trưởng cho nền kinh tế của mỗi quốc gia.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 174 trang tài liệu này.

TTCK chỉ có thể phát triển khi nó đảm bảo nguyên tắc của công bố thông tin (CBTT) và đây cũng là cách thức để các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết (DNPTCNY) thể hiện sự công khai minh bạch thông tin đối với nhà đầu tư và các đối tượng có liên quan. CBTT đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến quá trình phân bổ hiệu quả các nguồn lực và hạn chế sự bất cân xứng thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Doanh nghiệp là người chủ động CBTT và là người hiểu rõ nhất về thực trạng hoạt động kinh doanh của mình, ngược lại nhà đầu tư là những người ở thế bị động và phụ thuộc phần lớn vào các thông tin do doanh nghiệp cung cấp. Khi những thông tin do doanh nghiệp cung cấp không đầy đủ, không kịp thời và không phản ánh đúng giá trị của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư, giá của cổ phiếu và sự phát triển lâu dài của TTCK.

CBTT bao gồm thông tin tài chính (TTTC) và thông tin phi tài chính, thông tin bắt buộc và thông tin tự nguyện, các thông tin này có thể được công bố thường xuyên thông qua các phương tiện CBTT theo quy định hoặc công bố định kỳ trên báo cáo tài chính (BCTC), báo cáo thường niên (BCTN). Thông tin bắt buộc được quy định bởi các văn bản pháp lý, thông tin tự nguyện là những thông tin mà doanh nghiệp công bố bổ sung bên cạnh thông tin bắt buộc nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin. TTTC là nguồn thông tin quan trọng để kết nối doanh nghiệp và người sử dụng. TTTC không những giúp người sử dụng phân tích, đánh giá tình hình tài chính hiện tại mà còn có khả năng dự báo sự phát triển của DNPTCNY trong tương lai, đặc biệt khi các TTTC này được ban giám đốc (BGĐ), hội đồng quản trị (HĐQT) của DN sử

Công bố thông tin tài chính trên báo cáo thường niên của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 2


dụng để giải trình kết quả đạt được trong quá khứ, làm căn cứ xây dựng kế hoạch cho các kỳ kinh doanh tiếp theo.

Để đảm bảo lợi ích của người sử dụng TTTC cũng như đảm bảo tính công khai mọi hoạt động của DNPTCNY trên TTCK, các cơ quan quản lý, các tổ chức ban hành chuẩn mực kế toán đã không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy định về công bố, trình bày thông tin trên BCTC, BCTN. Trên thế giới, nhằm đẩy mạnh quá trình hội nhập kế toán, Ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) đã được thành lập với mục tiêu là “hình thành một hệ thống chuẩn mực kế toán phục vụ cho lợi ích chung, chất lượng cao, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế giới”. Kể từ khi hệ thống chuẩn mực BCTC quốc tế ra đời, tính đến tháng 4/2020, trên thế giới đã có 166 quốc gia đã hoặc đang trên lộ trình áp dụng IFRS. Tại Việt Nam, ngày 16 tháng 3 năm 2020, Bộ Tài chính đã ban hành quyết định 345/QĐ-BTC phê duyệt Đề án áp dụng chuẩn mực Báo cáo tài chính để khẳng định việc Việt Nam sẽ áp dụng IFRS. Có nhiều ý kiến ủng hộ việc áp dụng IFRS bởi nó giúp cải thiện tính so sánh của thông tin trên BCTC, giảm chi phí và rủi ro sử dụng thông tin của các nhà đầu tư, tăng tính rõ ràng của thông tin. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, IFRS dựa trên nguyên tắc, có tính linh hoạt cao nên khó vận dụng vào hoàn cảnh các nước đang phát triển hơn nữa việc thiếu một thị trường phát triển cũng làm cho các nước này khó có thể áp dụng phương pháp ước tính giá trị hợp lý, một nguyên tắc quan trọng trong việc trình bày thông tin trên BCTC. Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Hoài Hương (2010)

10, có sự khác biệt đáng kể giữa VAS và IAS/IFRS, đặc biệt là vấn đề CBTT vì vậy BCTC được lập theo VAS có thể không đáp ứng được nhu cầu thông tin ở mức độ hợp lý để có thể ra quyết định của các đối tượng liên quan.

Trong những năm gần đây, Việt Nam được biết đến như một quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tương đối cao so với các quốc gia trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Tổng giá trị vốn huy động qua TTCK từ khi khai trương hoạt động đến nay đã đạt trên 2 triệu tỷ đồng, đóng góp bình quân 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tương đương gần 60% so với nguồn cung vốn tín dụng thông qua hệ thống ngân hàng. Số lượng tài khoản NĐT đã không ngừng gia tăng, từ khoảng

3.000 tài khoản NĐT tham gia khi mới mở cửa thị trường vào năm 2000, cho đến


nay đạt 1,69 triệu tài khoản, tăng 580 lần so với năm 2000; số lượng NĐT nước ngoài cũng đã tăng 2,3 lần so với năm 2007, huy động khoảng 17,2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp (cao nhất từ trước tới nay), góp phần làm tăng quy mô vốn đầu tư xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Số lượng DNPTCNY chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số DNNY trên TTCK với sự đa dạng về lĩnh vực kinh doanh như công nghiệp, bất động sản, Y tế, sản xuất… đóng góp vai trò rất lớn trong sự phát triển của nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng.

Các nghiên cứu về CBTT trên TTCK đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm tuy nhiên theo tìm hiểu của NCS, phần lớn các nghiên cứu trước đây tập trung vào các thông tin trên BCTC mà rất ít các nghiên cứu khai thác thông tin trên BCTN. Về phương pháp nghiên cứu thường sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để xác định ảnh hưởng của các yếu tố đến mức độ CBTT từ đó đưa ra khuyến nghị với các chủ thể khác nhau mà chưa chỉ ra được giải pháp căn bản để hoàn thiện CBTT đó là phải hoàn thiện hệ thống các quy định, nguyên tắc ghi nhận, trình bày TTTC và quy định này cần phải phù hợp, thống nhất với thông lệ, chuẩn mực kế toán quốc tế. Đặc biệt, sự khác biệt về cách thức ghi nhận thông tin và số lượng TTTC được trình bày theo yêu cầu của VAS với IAS/ IFRS sẽ làm giảm tính hữu ích của TTTC cung cấp cho người sử dụng. Vì vậy, nếu chỉ nghiên cứu các vấn đề về công bố TTTC của DNPTCNY dựa trên VAS mà chưa quan tâm đến những khác biệt về công bố TTTC giữa VAS và IAS/IFRS là chưa đầy đủ. Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, nhu cầu về huy động vốn trên TTCK quốc tế của các DNPTCNY ngày càng cao nên việc đáp ứng công bố TTTC theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS/IFRS là điều hết sức cần thiết. Đặc biệt trong bối cảnh BTC đã ban hành quyết định áp dụng chuẩn mực BCTC tại Việt Nam thì vấn đề về hoàn thiện công bố TTTC theo chuẩn mực BCTC cần được quan tâm.

Từ những lý do trên, NCS lựa chọn đề tài “Công bố thông tin tài chính trên báo cáo thường niên của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” làm đề tài luận án của mình.


2. Tổng quan nghiên cứu

2.1. Các nghiên cứu về báo cáo thường niên

Báo cáo thường niên là báo cáo bắt buộc mà CTCP phải công bố cho cổ đông được Quốc hội Mỹ thông qua vào năm 1934. Luật doanh nghiệp năm 1985 và 1989 của Anh yêu cầu BCTN cần trình bày các hoạt động cơ bản của DN, tóm tắt hoạt động kinh doanh trong năm. Hình thức của BCTN được quy định bắt buộc trong Luật Tập đoàn của Úc năm 1991. Mặc dù BCTN xuất hiện sau BCTC khá lâu nhưng không thể phủ nhận vai trò của BCTN trong việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư. Nếu BCTC là một trong những nguồn thông tin quan trọng trong việc cung cấp thông tin về tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh và dòng tiền của doanh nghiệp (Lê Thị Tú Oanh, 2012)29 thì BCTN lại cung cấp thông tin các dự án kinh doanh, kế hoạch kinh doanh cũng như chiến lược và định hướng phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, ngoài thông tin trên BCTC các đối tượng quan tâm đến HĐKD của doanh nghiệp còn tìm kiếm thêm các thông tin diễn giải, bổ sung từ báo cáo của ban giám đốc, báo cáo của chủ tịch HĐQT. Chính vì vậy, BCTN trở thành nguồn thông tin quan trọng giúp cho các nhà đầu tư, các đối tượng khác có thể tìm hiểu rõ hơn về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Đặng Thị Bích Ngọc, 2018)25. So với các nghiên cứu về CBTT trên BCTC đã được thực hiện trong nhiều năm thì các nghiên cứu về CBTT trên BCTN được thực hiện muộn hơn rất nhiều và ít hơn cả về số lượng.

Bartlett và Jones (1997)51 nhận thấy rằng từ năm 1970 đến 1990 nội dung CBTT bắt buộc trên BCTN tăng nhanh do sự thay đổi trong yêu cầu của các cơ quan quản lý, cùng với đó các thông tin tự nguyện cũng gia tăng với chủ đề chính là báo cáo xã hội của doanh nghiệp (CSR), liên quan đến sự tương tác của công ty với môi trường tự nhiên, nhân viên, cộng đồng và khách hàng. Nội dung CBTT ngày càng gia tăng, đặc biệt là giữa các công ty lớn trong ngành công nghiệp nhạy cảm với môi trường (Deegan và Gordon, 1996)73

Ngoài các nghiên cứu về số lượng thông tin công bố, các nghiên cứu sau này quan tâm đến chất lượng thông tin công bố, mối quan hệ giữa TTTC công bố và các


thông tin diễn giải khác được trình bày trên trên BCTN. Pascal Balata, Gaétan Breton (2005)107 đã sử dụng phương pháp phân tích nội dung trong thư của của chủ tịch HĐQT và xây dựng một chỉ số về mức độ lạc quan từ đó so sánh chỉ số này với sự thay đổi của các con số hoặc tỷ lệ chủ yếu từ BCTC. Tác giả đã chỉ ra phần BCTC và phần thông tin diễn giải trình bày trên BCTN chưa có sự hoà hợp, có thể gây nên sự không thống nhất giữa 2 nội dung này bởi vì thông tin trên BCTC được kiểm toán nhưng các thông tin diễn giải ở phần còn lại doanh nghiệp trình bày mang tính mở, tính tự nguyện. Kết quả bài viết cho thấy có sự khác biệt vừa phải giữa nội dung tường thuật và dữ liệu kế toán Trong kết quả nghiên cứu của John M. Penrose (2008)81 cho thấy các biểu đồ sử dụng trong BCTN được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia tuy nhiên xuất hiện nhiều sai sót, thiếu chính xác đối với các thông tin được trình bày trên biểu đồ.

Một số các nghiên cứu khai thác dữ liệu trên BCTN để xác định mức độ CBTT Al-Shamari, B. (2008)43; xem xét ảnh hưởng của các yếu tố đến mức độ CBTT trên BCTN Meek và cộng sự (1995)100; Armer Alhazaimeh và cộng sự (2014)49. Lê Tuấn Anh (2018)3 quan tâm đến các thông tin mang tính chất dự báo trên BCTN; tìm hiểu mối quan hệ giữa đặc điểm của doanh nghiệp và loại thông tin này. Arvidsson Susanne (2011)40 phân tích quan điểm của các nhóm quản lý về các khía cạnh liên quan đến việc CBTT phi tài chính trong BCTN trong đó tập trung vào các chỉ số hiệu suất phi tài chính.

Lê Thị Tú Oanh (2012)29 đánh giá 40 BCTN của các CTCP niêm yết trên TTCK Việt Nam từ năm 2007 đến 2010 trên các mặt nội dung, hình thức, thời gian và cách thức CBTT. Từ đó chỉ ra những tồn tại của hệ thống BCTN và đề xuất giải pháp hoàn thiện hình thức báo cáo; hoàn thiện số lượng báo cáo bộ phận; hoàn thiện nội dung dung báo cáo; các chỉ tiêu tài chính cơ bản; hoàn thiện về thời gian, cách thức CBTT và đề xuất mẫu BCTN.

Trần Thị Hải Lý và cộng sự (2018)22 sử dụng sắc thái ngôn ngữ trong phần văn bản của BCTN để đo lường tâm lý lạc quan của nhà quản lý nhằm mục đích tìm hiểu mối liên hệ giữa sự lạc quan của nhà quản lý với đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp.


2.2. Các nghiên cứu liên quan đến công bố thông tin

Toàn cầu hoá và sự hiểu biết của các nhà đầu tư tiềm năng về TTTC được công bố đã dẫn đến nhu cầu sử dụng và yêu cầu về chất lượng của loại thông tin này tăng lên. CBTT là một trong những công cụ mà các nhà quản lý sử dụng để truyền đạt thông tin đến các nhà đầu tư. Trong đó, yêu cầu CBTT bắt buộc là trách nhiệm của các tổ chức quản lý như IASB, FASB, BTC hay UBCKNN được thể hiện thông qua việc xây dựng hệ thống chuẩn mực, khuôn khổ, quy định của các chỉ tiêu công bố. CBTT tự nguyện là trách nhiệm của các nhà quản lý doanh nghiệp khi cung cấp các thông tin bổ sung theo nhu cầu của nhà đầu tư. Vì vậy, khi thông tin bắt buộc không đủ đáp ứng nhu cầu nhà đầu tư thì các nhà quản lý cần cân nhắc giữa chi phí và lợi ích của doanh nghiệp khi thực hiện quyền quản lý của mình (Akhtaruddin, 2005) 42

Wallace và Naser (1995) 122; Owusu-Ansah (1998) 104 cho rằng CBTT như là một sự giao tiếp về kinh tế, cho dù đó là thông tin tài chính hay thông tin phi tài chính, thông tin định lượng hay thông tin định tính. Kết quả của CBTT là sự kết hợp giữa các thông tin tự nguyện và bắt buộc. CBTT bắt buộc là nghĩa vụ của mỗi doanh nghiệp khi công bố một lượng thông tin tối thiểu trong các báo cáo của doanh nghiệp. CBTT tự nguyện là cung cấp thông tin bổ sung khi CBTT bắt buộc không thể hiện hết những giá trị thực mà doanh nghiệp đạt được cũng như thành tích của người quản lý.

CBTT bắt buộc được điều chỉnh bởi các cơ quan quản lý ở tất cả các quốc gia trên thế giới (Healy và Palepu, 2001 86; Akhtaruddin, 2005) 42, mục đích là để quản lý các doanh nghiệp phải công bố những thông tin mà họ có thể muốn che dấu. Việc quy định CBTT bắt buộc là để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư (Taplin và cộng sự, 2002)

116, cũng như thu hẹp khoảng cách bất cân xứng thông tin giữa các nhà đầu tư có thông tin và những nhà đầu tư thiếu thông tin, điều này cũng đảm bảo các doanh nghiệp tuân thủ các yêu cầu pháp lý (Al-Htaybat và cộng sự, 2006) 46.

CBTT bắt buộc có thể không đủ để đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin hay kỳ vọng của nhà đầu tư do đó CBTT tự nguyện được sử dụng để gửi đến thông điệp về hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Healy và cộng sự, 2001) 86. Vì vậy, thông tin tự nguyện thực chất là thông tin bổ sung nên số lượng CBTT này nhiều hay ít


tuỳ thuộc vào quyết định của nhà quản lý doanh nghiệp, các quy định pháp lý có liên quan, nhu cầu của các doanh nghiệp tư vấn, nhà phân tích tài chính, thị trường vốn và văn hoá quốc gia. Anna Watson và cộng sự (2002)47 cho rằng công bố tự nguyện biểu hiện dưới nhiều hình thức như buổi họp báo, cuộc họp thảo luận với các nhà phân tích tài chính, thư gửi cho cổ đông hay là những thông tin bổ sung trong BCTN dưới dạng ví dụ minh hoạ.

CBTT bắt buộc hay tự nguyện đều đóng vai trò quan trọng như nhau (Omar và cộng sự, 2007) 103 và chúng tương tác với nhau liên tục. Khi các quy định về CBTT bắt buộc khó diễn giải gây khó hiểu cho người sử dụng thông tin thì các doanh nghiệp có thể công bố thông tin tự nguyện để bổ sung làm rõ điều này.

Hoàng Tùng (2001)34 nghiên cứu các khía cạnh liên quan đến CBTT của các DNPTCNY trên TTCK Việt Nam. Tác giả cho rằng, mức độ CBTT không chỉ phụ thuộc vào các quy định hiện hành của nhà nước mà còn phụ thuộc vào các yếu tố liên quan đến đặc điểm của doanh nghiệp như hình thức sở hữu, loại hình kinh doanh, quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán.

Nghiên cứu của Ngô Thu Giang (2014)5 Khi xác định mức độ CBTT trong nghiên cứu này, tác giả đã tiếp cận theo các đặc tính “tính thông tin”, “tính cập nhật”, “tính rõ ràng dễ hiểu”. Để đo lường tính đầy đủ của thông tin, tác giả sử dụng chỉ số CBTT. Tính thông tin được đo lường riêng biệt và tổng hợp cho thông tin định kỳ; thông tin bất thường và theo yêu cầu. Về tính rõ ràng, dễ hiểu được đánh giá thông qua số liệu về tỷ trọng diễn giải và minh chứng. Báo cáo có tỷ trọng lớn về số liệu minh chứng được đánh giá có tính rõ ràng và dễ hiểu hơn so với báo cáo định kỳ có tỷ trọng diễn giải cao. Về tính cập nhật, tác giả đo lường dựa trên thống kê sự xuất hiện của thông tin.

2.3. Các nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu công bố thông tin bắt buộc, tự nguyện

Trong các nghiên cứu về mức độ CBTT không thể thiếu hệ thống chỉ tiêu công bố làm căn cứ khảo sát thực trạng của các DNNY. Tuỳ thuộc vào các mục đích nghiên cứu khác nhau mà các tác giả có thể sử dụng các hệ thống chỉ tiêu công

Xem tất cả 174 trang.

Ngày đăng: 15/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí