bố của các tổ chức quốc tế như nghiên cứu của Lê Quang Cảnh và Nguyễn Vũ Hùng (2016)4 sử dụng nguyên tắc quản trị của OECD (2004) để tính điểm CBTT. Trong nghiên cứu của Ali và cộng sự (2004), trích trong Nguyễn Trọng Nguyên (2016)26 cho rằng những đất nước thuộc nền kinh tế mới nổi muốn gia tăng nguồn vốn từ nước ngoài cần phải tăng cường cải thiện chất lượng BCTC của doanh nghiệp vì vậy các tác giả đã xem xét việc tuân thủ 14 chuẩn mực kế toán ở Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh dựa trên danh mục công bố bắt buộc gồm 131 chỉ
mục theo yêu cầu của 14 chuẩn mực kế toán nói trên để đo lường sự tuân thủ.
Nghiên cứu của Tạ Quang Bình (2012)115 xây dựng hệ thống chỉ mục CBTT tự nguyện dựa trên các nghiên cứu trước đó có liên quan đến đề tài, đặc biệt là các nghiên cứu được thực hiện ở các nước đang phát triển. Từ danh mục đã được tổng hợp, tác giả tiến hành đối chiếu với yêu cầu về CBTT bắt buộc tại Việt Nam ở thời điểm nghiên cứu để loại trừ các thông tin được coi là thông tin bắt buộc. Sau đó, bộ chỉ mục này tiếp tục được gửi đến các chuyên gia để xin ý kiến và hiệu chỉnh trước khi tiến hành thực hiện khảo sát. Cuối cùng, bộ chỉ mục chính thức về CBTT tự nguyện của tác giả sử dụng gồm có 72 chỉ mục và được chia thành 6 nhóm: thông tin chung về doanh nghiệp, thông tin tài chính, thông tin hướng tới tương lai, thông tin về nhân viên, trách nhiệm xã hội và chính sách môi trường, công bố cơ cấu HĐQT.
Nghiên cứu của Nguyễn Công Phương và Nguyễn Thị Thanh Phương (2014) 30 khảo sát mức độ CBTT tổng hợp bao gồm chỉ số CBTT bắt buộc và chỉ số CBTT tự nguyện. Chỉ số CBTT bắt buộc được tính toán dựa trên các chỉ mục thông tin được quy định cụ thể trong “Hệ thống báo cáo tài chính theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC và thông tư bổ sung có liên quan. Chỉ số CBTT tự nguyện được tính toán theo hệ thống chỉ mục thông tin còn lại được yêu cầu công bố trong hệ thống chuẩn mực kế toán VN nhưng không được cụ thể trong chế độ kế toán. Sau khi tổng hợp, nhóm tác giả đã sử dụng 165 mục thông tin để khảo sát bằng cách cho điểm theo phương pháp không trọng số.
Phạm Đức Hiếu & Đỗ Thị Lan Hương (2015)108 nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến CBTT tự nguyện của các DNNY trên TTCK Việt Nam đã dựa trên danh sách gồm 84 chỉ mục trong nghiên cứu của Vu (2012)119 nhưng đã được loại đi các thông tin đã được yêu cầu công bố trong TT52/2012/TT-BTC. Danh sách cuối cùng được nhóm tác giả sử dụng có 42 chỉ mục được chia thành 4 nhóm đó là thông tin doanh nghiệp và chiến lược (11 chỉ mục); thông tin tài chính và thị trường vốn (14 chỉ mục); thông tin dự báo (8 chỉ mục) và thông tin báo cáo xã hội (9 chỉ mục).
Nghiên cứu của Đặng Thị Bích Ngọc (2018) 25 dựa trên hệ thống chỉ mục từ nghiên cứu của Nguyễn Công Phương và Nguyễn Thị Thanh Phương (2014)30 đã xây dựng và bổ sung danh mục khảo sát với 165 chỉ mục thông tin bao gồm thông tin từ BCĐKT; thông tin từ Báo cáo KQKD và thuyết minh liên quan đến BCKQKD; thông tin từ Báo cáo LCTT và thuyết minh liên quan đến BCLCTT; thông tin từ thuyết minh BCTC theo TT 200/2014/TT-BTC; thông tin thuyết minh BCTC theo thông tư 210/2009; thông tin thuyết minh BCTC theo chuẩn mực kế toán - không được trình bày trong biểu mẫu của TT220/2014/TT-BTC; thông tin khác về DNNY.
Nghiên cứu của Lê Xuân Thái, Trương Đông Lộc (2019)35 sử dụng bộ tiêu chí của Standard&Poor (S&P) kết hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam để đo lường mức độ minh bạch và CBTT. Trong nghiên cứu này chỉ số minh bạch và CBTT của nhóm tác giả được tính dựa trên 3 thành phần chính: CBTT cấu trúc sở hữu và quyền của nhà đầu tư (18 điểm); CBTT tài chính (50 điểm) và CBTT cơ cấu HĐQT và điều hành công ty (30 điểm). Tổng số điểm của công ty đạt tối đa trên bảng hỏi là 98 điểm (100%).
Nghiên cứu của Phạm Thị Bích Thu (2019)33 sử dụng phương pháp tiếp cận khách quan với việc sử dụng bộ chỉ số minh bạch và công bố thông tin của tổ chức xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới Standard and Poors (S&P) và có bổ sung thêm yêu cầu về CBTT theo thông tư 155/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính để đo lường mức độ CBTT của doanh nghiệp đồ uống niêm yết.
Có thể bạn quan tâm!
- Công bố thông tin tài chính trên báo cáo thường niên của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 1
- Công bố thông tin tài chính trên báo cáo thường niên của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam - 2
- Phương Pháp Xử Lý Dữ Liệu Định Tính
- Các Kết Quả Nghiên Cứu Dự Kiến Đạt Được Của Luận Án
- Khái Niệm Và Vai Trò Của Thông Tin Tài Chính
Xem toàn bộ 174 trang tài liệu này.
Nghiên cứu của Hồ Thị Thuỷ Tiên, Hoàng Mạnh Khánh (2020)36 dựa trên bộ chỉ số minh bạch và cung cấp thông tin của Standard and Poors (S&P), các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về quản trị công ty và CBTT để lượng hoá mức độ minh bạch thông tin của các DNNY trên TTCK Việt Nam.
2.4. Các nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin
Các tác giả trên thế giới đã quan tâm nghiên cứu về mức độ CBTT từ những năm 1960 theo 2 cách tiếp cận khác nhau. Cách thứ nhất tiếp cận chủ yếu dựa trên phiếu khảo sát gồm các câu hỏi xếp hạng mức độ quan trọng của các khoản mục kế toán trong việc quá trình ra quyết định của người sử dụng (Buzby, 197456 ; Firth, 197977; Chandra, 197469; Turkey, 1985117). Nhóm thứ hai nghiên cứu về mối quan hệ giữa mức độ CBTT và đặc điểm của doanh nghiệp, trong đó mức độ CBTT có thể được xây dựng dựa trên thông tin bắt buộc, thông tin tự nguyện. Các nghiên cứu ban đầu về mối liên hệ giữa CBTT và đặc điểm doanh nghiệp được thực hiện chủ yếu ở các nước phát triển như nghiên cứu của Firth, (1979)77; Lang và Lundholm, (1993)96; Cooke, (1989)65, (1992)66; Wallace và Naser, (1995)
122. Sau này, các tác giả cũng thực hiện nghiên cứu ở các nước đang phát triển như Ahmed và Nicholls (1994)41; Omar,B.F.A (2007)103; Leventis (2001)
98; Lowe, (2014)99. Ngoài ra có tác giả còn áp dụng cách tiếp cận so sánh mức độ CBTT giữa hai hoặc nhiều quốc gia như Barrete (1977)50; Camfferman và Cooke (2002)62.
Các nghiên cứu đều cho rằng lượng CBTT không cố định, không được xác định một cách chắc chắn. Các tác giả có thể sử dụng các thuật ngữ khác nhau để nói về biến phụ thuộc CBTT, Buzby (1974)56 áp dụng thuật ngữ đầy đủ; Barrett, M.E (1977)50; Wallace và cộng sự (1994)120 áp dụng thuật ngữ toàn diện; Patton và Zelenka (1997)106 sử dụng thuật ngữ mức độ. Số lượng các yếu tố ảnh hưởng có thể khác nhau, đặc điểm doanh nghiệp ảnh hưởng đến CBTT cũng có sự khác nhau trong các nghiên cứu. Có thể chia các yếu tố ảnh hưởng thành các nhóm: (i) các
biến liên quan đến cấu trúc doanh nghiệp; (ii) các biến liên quan đến thị trường; (iii) các biến liên quan đến hiệu suất…
Nghiên cứu của Ngô Thu Giang (2014)5 đánh giá hoạt động CBTT trên 3 phương diện là tính thông tin, tính rõ ràng dễ hiểu và tính cập nhật của thông tin công bố. Tác giả đã đánh giá 5 nhóm yếu tố là đặc điểm ngành nghề, đặc điểm về sở hữu, đặc điểm về quản trị công ty, đặc điểm về kết quả kinh doanh, đặc điểm về niêm yết. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về mức độ CBTT do tác động của đặc điểm ngành nghề. Đặc điểm nguồn vốn chủ sở hữu hoàn toàn không tác động đến mức độ CBTT định kỳ nói chung. Tỷ trọng sở hữu nước ngoài có mối quan hệ cùng chiều với thông tin công bố tuân thủ theo quy định trong BCTN. ROA, ROE tác động trực tiếp và cùng chiều tới lượng thông tin công bố. DNNY có lịch sử niêm yết càng dài, tỷ lệ vốn hoá càng cao thì càng chú trọng vào số lượng và tính cập nhật của thông tin công bố bất thường và theo yêu cầu.
Nghiên cứu của Nguyễn Công Phương, Nguyễn Thị Thanh Phương (2014)
30 sử dụng 99 BCTC của DNNY trên Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ CBTT trong BCTC của DNNY không cao. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT bao gồm quy mô, tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài, công ty kiểm toán, mức độ sinh lời và thời gian niêm yết. Một số các yếu tố khác có ý nghĩa trong các nghiên cứu trước đây trên thế giới như tỷ lệ sở hữu của nhà nước, đòn bẩy tài chính, quản trị công ty, số công ty con, lĩnh vực hoạt động, khả năng thanh toán, thị trường niêm yết và tính phức tạp của hoạt động kinh doanh lại không ảnh hưởng đến mức độ CBTT trong nghiên cứu này.
Nguyễn Hà My (2017)24 nghiên cứu ảnh hưởng của hai nhóm yếu tố là đặc điểm doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp đến mức độ CBTT của các DNNY trên sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh. Kết quả của nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố quy mô doanh nghiệp; tính thanh khoản; lợi nhuận; tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài và tỷ lệ thành viên không điều hành trong HĐQT tác động đến mức độ CBTT của doanh nghiệp. Trong nghiên cứu này, tác giả đã đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin được công bố, thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt Nam, tạo nhiều cơ hội cho nhà đầu tư.
Đặng Thị Bích Ngọc (2018)25 khảo sát dữ liệu BCTC của 286 DNNY từ năm 2014 – 2016 để đo lường mức độ CBTT kế toán của các DNNY trên TTCK Việt Nam. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT kế toán được tác giả chia thành 3 nhóm là (1) Quản lý doanh nghiệp; (2) Cơ cấu sở hữu; (3) Đặc điểm của doanh nghiệp. Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, tác giả đã xác định được các yếu tố quy mô doanh nghiệp, thời gian hoạt động, kiểm toán độc lập, kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và giám đốc, tình trạng niêm yết, sở hữu nước ngoài là các yếu tố ảnh hưởng cùng chiều đến mức độ CBTT kế toán .
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Liêm (2019)20 sử dụng chỉ số đo lường mức độ CBTT trong BCTC hợp nhất của 50 doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Kết quả cho thấy mức độ CBTT của các doanh nghiệp này ở mức khá; có 5 yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT là quy mô thành viên hội đồng quản trị; kiêm tổng giám đốc; kiểm toán độc lập; quy mô doanh nghiệp và tỷ lệ sinh lời. Nghiên cứu không tìm thấy sự ảnh hưởng của các yếu tố sở hữu của cổ đông nước ngoài; sở hữu của cổ đông nhà nước; đòn bẩy tài chính và số công ty con.
Trương Đông Lộc, Nguyễn Xuân Thuận (2018)19 thu thập thông tin từ BCTC, BCTN năm 2015 của 207 DNNY trên HOSE để đo lường ảnh hưởng của đặc điểm hội đồng quản trị (HĐQT) đến mức độ CBTT của các DNNY trên Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ CBTT bình quân của công ty là 73,1 điểm. Kết quả phân tích hồi quy cho thấy số lượng thành viên của HĐQT và tỷ lệ nữ trong HĐQT, tổng giám đốc làm giảm mức độ CBTT của DNNY. Quy mô và tỷ suất lợi nhuận có mối tương quan thuận với mức độ CBTT của DNNY, trong khi đó các DNNY được kiểm toán bởi các một trong bốn công ty kiểm toán lớn nhất có mức độ CBTT cao hơn so với các DNNY còn lại.
Trần Thị Phương Thảo, Trần Quỳnh Anh (2020)37 nghiên cứu thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố TTTC của 40 doanh nghiệp ngành
thực phẩm – đồ uống niêm yết trên TTCK Việt Nam. Mức độ công bố TTTC đạt 78,85%. Kết quả kiểm định mô hình hồi quy chỉ ra được yếu tố sở hữu nhà nước; sở hữu nhà đầu tư nước ngoài và quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đến mức độ công bố TTTC. Ngược lại các yếu tố khả năng thanh toán, chủ thể kiểm toán, và tỷ lệ nợ trên tổng tài sản thể hiện mối quan hệ ngược chiều.
Phan Thị Hải Hà và cộng sự (2019)12 nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trên BCTC của các doanh nghiệp công nghiệp niêm yết trên Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh. Sử dụng BCTC năm 2017 của 87 doanh nghiệp, nghiên cứu chỉ ra 6 yếu tố ảnh hưởng tích cực đến mức độ CBTT bao gồm: thời gian hoạt động, danh tiếng của công ty kiểm toán, khả năng thanh toán, đòn bẩy tài chính và khả năng sinh lời.
Nghiên cứu của Hồ Thị Thuỷ Tiên, Hoàng Mạnh Khánh (2019)36 cho thấy các yếu tố tài chính bao gồm quy mô doanh nghiệp, hiệu suất sử dụng tài sản, công ty kiểm toán và yếu tố quản trị bao gồm sự kiệm nhiệm giữa chủ tịch Hội đồng quản trị và tổng giám đốc có ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin của các DNNY trên TTCK Việt Nam.
Nguyễn Thị Thu Hảo (2015)15 thực hiện khảo sát 106 DNNY trên HOSE để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT tự nguyện. Kết quả phân tích chỉ ra có 3 yếu tố ảnh hưởng bao gồm quy mô, loại hình sở hữu có yếu tố nước ngoài và lợi nhuận.
Nghiên cứu của Phạm Hoài Hương, Trần Thuỳ Uyên (2018)11 sử dụng mô hình hồi quy đa biến dựa trên dữ liệu thu thập của 100 DNNY trên TTCK Việt Nam để nhận diện các yếu tố thuộc đặc điểm quản trị công ty ảnh hưởng đến mức độ CBTT tự nguyện trên BCTN. Kết quả nghiên cứu chỉ ra các yếu tố: mức độ độc lập của HĐQT, tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT, tỷ lệ sở hữu quản lý và tỷ lệ sở hữu nước ngoài ảnh hưởng đến mức độ CBTT tự nguyện của các DNNY.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Loan và cộng sự (2020)23 sử dụng mô hình của Barako (2007) để phân tích định lượng dựa trên bộ dữ liệu BCTN của 122 DNNY trên sàn HOSE trong giai đoạn từ 2015 – 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy
có 4 yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT tự nguyện là quy mô doanh nghiệp, thời gian niêm yết, khả năng sinh lời và quyền sở hữu tổ chức.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Huỳnh (2020)17 sử dụng phương pháp OLS, FEM, REM để đánh giá mức độ ảnh hưởng của quản trị công ty, cấu trúc sở hữu đến công bố tự nguyện của các DNNY trên TTCK Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ CBTN trên TTCK Việt Nam đạt trung bình là 40,78% trong đó yếu tố sự kiêm nhiệm giữa vị trí CEO và chủ tịch HĐQT tác động tiêu cực đến mức độ công bố tự nguyện.
3. Khoảng trống nghiên cứu
Nhìn chung, để TTCK phát triển ngày càng mạnh mẽ thì vấn đề CBTT không chỉ phụ thuộc vào các quy định được ban hành bởi các cơ quan quản lý chức năng mà còn cần có sự quan tâm của chính các DNPTCNY và các nhà đầu tư trên thị trường. Ở giai đoạn sơ khai, TTCK thường bị chi phối bởi tâm lý “đám đông” do sự thiếu hụt các thông tin chính thống thì ở những giai đoạn phát triển tiếp theo vấn đề CBTT phải thể hiện được sự minh bạch, rõ ràng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhà đầu tư. Điều này dẫn đến yêu cầu cơ bản đặt ra cho các DNPTCNY là phải tăng cường CBTT nói chung và CBTT tài chính nói riêng để thu hẹp khoảng cách bất cân xứng thông tin giữa các nhóm đầu tư. Chính vì lý do đó, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước những năm gần đây đã thực hiện nhiều nghiên cứu về thực trạng CBTT, chất lượng thông tin, tính hữu ích của thông tin công bố trên TTCK và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả nhận thấy vẫn còn những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết:
Thứ nhất, các nghiên cứu trước đây thường lựa chọn đối tượng nghiên cứu là thông tin bắt buộc hoặc thông tin tự nguyện mà ít các nghiên cứu thực hiện cho cả hai nhóm đối tượng trên. Khi thực hiện các nghiên cứu này, các tác giả thường tập trung vào xác định mức độ CBTT của các doanh nghiệp từ đó đưa ra các khuyến nghị tăng cường mức độ CBTT, chất lượng thông tin công bố, tính minh bạch của thông tin. Như vậy, các nghiên cứu này mới chỉ quan tâm đến việc tăng cường mức độ CBTT
mà chưa quan tâm đến nguồn gốc của CBTT là các quy định về CBTT được yêu cầu cụ thể theo các chuẩn mực kế toán, thông tư hướng dẫn và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Khi các các quy định này chưa đầy đủ, chưa bao quát hết các vấn đề về ghi nhận và trình bày thông tin làm cho TTTC mà doanh nghiệp công bố không đầy đủ, không phản ánh đúng giá trị của DN làm ảnh hưởng đến việc ra quyết định của người sử dụng thông tin.
Thứ hai, hệ thống danh mục TTTC được sử dụng trong mỗi nghiên cứu không giống nhau do cách tiếp cận của từng nghiên cứu làm cho kết quả nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT có thể giống hoặc khác nhau thậm chí trái ngược nhau. Một số yếu tố như đòn bẩy tài chính tác động cùng chiều đối với mức độ CBTT kế toán của DNPTCNY như trong nghiên cứu của Ahmed và Courtis (1999)39 vì theo tác giả việc công bố thông tin kế toán nhiều hơn là để làm giảm chi phí nợ vay. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của, Meek (1995)100 thì lại cho thấy không có mối liên hệ giữa đòn bẩy tài chính và mức độ CBTT kế toán. Nghiên cứu của Wallace và cộng sự (1994)120 lại chỉ ra rằng doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính cao lại làm giảm mức độ CBTT kế toán. Kết quả nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng của các đề tài trong nước cũng có sự khác biệt, chẳng hạn như trong nghiên cứu của Ngô Thu Giang (2014)5 chỉ ra đặc điểm sở hữu có tác động tiêu cực đến mức độ CBTT nhưng trong nghiên cứu của Nguyễn Công Phương, Nguyễn Thị Thanh Phương (2014) 30 lại không tìm thấy sự tác động. Ảnh hưởng của mức sinh lời đến mức độ công bố TTTC trong nghiên cứu của Nguyễn Công Phương, Nguyễn Thị Thanh Phương (2014)30 đồng nhất với nghiên cứu của Bujaki và Mc Conomy (2002)55 là tác động ngược chiều nhưng trong nghiên cứu của Ngô Thu Giang (2014)5 lại là tác động cùng chiều. Như vậy có thể thấy rằng cần có sự thận trọng khi xem xét các kết quả nghiên cứu, không nên chỉ dựa vào các kết quả nghiên cứu để khẳng định kết quả nào đúng, kết quả nào sai mà cần xem xét một cách toàn diện để có cách nhìn đúng đắn và đầy đủ hơn nhằm vận dụng một cách hợp lý trong môi trường và nền kinh tế ở Việt Nam.