Các Điều Kiện Hình Thành Hệ Thống Dlst

Chính vì vậy, cứu thiên nhiên bằng cách đưa du lịch vào trong điều kiện phù hợp với thiên nhiên không còn là cách thức mới mẻ đối với các doanh nghiệp lữ hành cũng như các cấp quản lý văn hóa, du lịch tại địa phương. Bên cạnh đó, DLST hướng vào tài nguyên và nhân công địa phương, đây chính là một sự thu hút hấp dẫn đối với các nước đang phát triển trong bối cảnh thiếu việc làm và dân số ngày càng gia tăng. DLST tạo nên những khao khát và sự thỏa mãn tìm hiểu thiên nhiên, kích thích lòng yêu mến thiên nhiên, từ đó thôi thúc được ý thức bảo tồn và phát triển nhằm ngăn ngừa các tác động tiêu cực lên tự nhiên, văn hóa và thẩm mỹ.

1.1.3. Các đặc trưng của DLST

DLST có tất cả các đặc trưng cơ bản của mọi hoạt động du lịch nói chung bao gồm:

- Tính đa ngành:

Thể hiện ở đối tượng được khai thác để phục vụ du lịch như: sự hấp dẫn về cảnh quan tự nhiên, giá trị văn hóa lịch sử…Thu nhập xã hội từ DLST cũng mang lại nhiều nguồn thu cho các ngành kinh tế thông qua các sản phẩm cung cấp cho khách du lịch như: điện, nước, các sản phẩm từ nông ngư nghiệp, bưu chính viễn thông, thủ công mỹ nghệ,…

- Tính đa thành phần:

Biểu hiện ở tính đa dạng trong thành phần khách du lịch, ở những người phục vụ, ở những cộng đồng cư dân địa phương tham gia vào hoạt động du lịch.

- Tính liên vùng:

Biểu hiện thông qua các tour, tuyến du lịch đến các khu, điểm du lịch trong một khu vực hay một quốc gia hoặc giữa các quốc gia với nhau.

- Tính mùa vụ:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

Biểu hiện ở thời gian diễn ra hoạt động du lịch tập trung cao trong năm. Tại Việt Nam, mùa du lịch thường là vào mùa hè đối với du lịch nghỉ dưỡng, và mùa xuân đối với du lịch văn hóa, tâm linh.

- Tính xã hội hóa:

Cơ sở địa lý cho phát triển du lịch sinh thái khu vực Quan Lạn, Minh Châu, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh - 3

Thể hiện ở sự thu hút nhiều người, nhiều ngành, nhiều cấp trong xã hội tham gia trực tiếp và gián tiếp vào hoạt động du lịch.

- Tính đa mục tiêu:

Biểu hiện những lợi ích đa dạng về bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan, di tích lịch sử – văn hoá, nâng cao chất lượng cuộc sống của người tham gia hoạt động du lịch, của cộng đồng cư dân địa phương, của khách du lịch; qua đó mở rộng được sự giao lưu văn hóa, kinh tế và nâng cao ý thức, trách nhiệm của mọi thành viên trong xã hội.

DLST còn chứa đựng các đặc trưng riêng, trong khi du lịch thiên nhiên thuần túy chỉ giới hạn trong khuôn khổ khai thác các điều kiện tự nhiên để tạo ra các sản phẩm, các hoạt động du lịch phục vụ du khách thì DLST là một khái niệm rộng lớn hơn, tổng hợp hơn nhằm đạt được các mục tiêu ở tầm vĩ mô trong công tác quản lý Nhà nước và quản lý khai thác kinh doanh du lịch.

- Tính Phát triển:

Môi trường: DLST hướng con người tiếp cận gần hơn với các vùng tự nhiên, các khu bảo tồn nơi rất nhạy cảm về mặt môi trường. Hoạt động du lịch gây nên những áp lực lớn đối với môi trường, mà DLST được coi là nhằm mở đường cho sự cân bằng giữa mục tiêu phát triển du lịch với mục tiêu bảo vệ môi truờng.

Giáo dục: hoạt động DLST có tác dụng giáo dục con người bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, qua đó đáp ứng được nhu cầu phát triển bền vững.

Xã hội: Phát triển DLST cần có sự tham gia của cộng đồng người dân địa phương vì cộng đồng các cư dân địa phương chính là những người chủ sở hữu các nguồn tài nguyên tại địa phương mình

- Tính bền vững:

+ Bền vững về kinh tế: DLST phát triển ổn định lâu dài, tạo ra nguồn thu đáng kể, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế của xã hội, đem lại lợi ích cho cộng đồng, đặc biệt là người dân địa phương.

+ Bền vững về tài nguyên và môi trường: DLST sử dụng các tài nguyên không vượt quá khả năng phục hồi của nó, đáp ứng nhu cầu phát triển hiện tại song không làm suy yếu khả năng tái tạo trong tương lai, đáp ứng được nhu cầu của thế hệ mai sau.

+ Bền vững về văn hóa xã hội: khai thác đáp ứng nhu cầu phát triển du lịch hiện tại không làm tổn hại, suy thoái các giá trị văn hóa truyền thống để lại cho các thế hệ tiếp theo.

1.1.4. Các nguyên tắc của DLST

DLST không chỉ đơn giản là vấn đề thay tên tour tuyến hay tổ chức các tour đến các khu tự nhiên. Việc tổ chức các tour DLST thực sự không dễ dàng. Muốn có tour DLST bền vững cần có sự cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường trong khuôn khổ các nguyên tắc và giá trị đạo đức. Theo Annalisa Koeman (cố vấn dự án du lịch bền vững) cho rằng để có tour DLST bền vững cần phải thực hiện 11 nguyên tắc cơ bản sau:

Tăng cường và khuyến khích trách nhiệm đạo đức của mọi người đối với môi trường, cụ thể là giáo dục nâng cao hiểu biết cho du khách về môi trường tự nhiên, tạo ý thức tham gia của du khách vào các nỗ lực bảo tồn.

Không làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường, không những đối với từng yếu tố mà cả sự cân bằng sinh thái của các yếu tố đó

Tập trung chú trọng đến sự cân bằng sinh thái của tổng thể các yếu tố của môi trường hơn đối với từng yếu tố của tài nguyên.

Du khách chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm nó biến đổi môi trường cho sự thuận tiện cá nhân.

Đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phương và đối với ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, xã hội, văn hóa hay khoa học).

Khi tiếp xúc với môi trường tự nhiên nhằm hòa đồng làm tăng sự hiểu biết hơn là đi tìm cảm giác mạnh hay mục đích tăng cường thể trạng.

Đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng thông qua kinh nghiệm của cả người hướng dẫn và các thành viên tham gia.

Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban ngành chức năng: địa phương, chính quyền, tổ chức đoàn thể, hãng lữ hành và khách du lịch (trước, trong và sau chuyến đi).

Dựa vào sự tham gia của địa phương, tăng cường sự hiểu biết và sự phối hợp với các ban ngành chức năng.

Đòi hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc và các tiêu chuẩn được chấp nhận và giám sát toàn bộ hoạt động.

Thiết lập một khuôn khổ quốc tế đa ngành vì DLST là một hoạt động mang tính quốc tế.

1.1.5. Các điều kiện hình thành hệ thống DLST

Triển khai thực hiện việc bảo tồn thiên nhiên tại điểm mà du khách tới:

Để thực hiện DLST bền vững, điều kiện tiên quyết là tiến hành các bước một cách hợp lý để tránh sự tác động hủy hoại đến môi trường hoặc làm suy thoái môi trường sinh thái của điểm tới thăm.

Hướng dẫn viên am hiểu về địa phương:

Các chương trình DLST cần các hướng dẫn viên có thể phiên dịch và giảng giải về môi trường thiên nhiên và văn hóa địa phương của vùng để làm tăng thêm kiến thức cho khách tham quan.

Những người thích hợp cho công việc này là cư dân địa phương hoặc những người đã sống ở đó một thời gian. Tuy nhiên, họ phải được đào tạo thì

mới thực hiện được vai trò hướng dẫn viên. Các hướng dẫn viên giữ vai trò, vị trí quan trọng trong phát triển DLST bền vững và họ phải có được quyền lợi và trách nhiệm tương xứng với vai trò của họ.

Giới hạn về việc sử dụng đất đai:

Thiết lập khả năng chịu đựng của vùng là điều quan trọng để giảm đến mức tối thiểu tác động đến thiên nhiên.

Muốn vậy, cần phải nhận định rõ ràng các vùng, các khu vực theo định hướng khai thác, bảo vệ như: vùng sử dụng, vùng sử dụng hạn chế và vùng cấm sử dụng theo đặc điểm của khu vực và các yêu cầu bảo vệ tài nguyên tự nhiên ở các điểm DLST.

Các chương trình hoạt động DLST được thiết lập dựa trên tài nguyên thiên nhiên, văn hóa của khu vực:

Các chương trình hoạt động cũng cần được lập ra bởi các hướng dẫn viên địa phương, những người có kiến thức sâu rộng và kinh nghiệm về tài nguyên thiên nhiên xung quanh họ và lối sống của cư dân địa phương đã có tiếp xúc lâu năm với những tài nguyên này.

1.2. Tổng Quan

1.2.1. Tổng quan về DLST trên thế giới

Du lịch sinh thái là một trong những ngành du lịch phát triển nhanh nhất, được ghi nhận tăng trưởng 10 - 15% hàng năm trên toàn thế giới, gấp ba lần mức trung bình trong toàn ngành du lịch [18].

Thuật ngữ DLST xuất hiện vào cuối những năm 1980 là kết quả trực tiếp của việc nâng cao nhận thức về môi trường. Loại hình du lịch này đã phát triển đáng kể trong những năm qua, được hỗ trợ bởi các yếu tố khác nhau: yếu tố tăng thu nhập và thời gian giải trí ở các hộ gia đình, nhu cầu hiểu biết về môi trường tự nhiên ngày càng tăng ở các nước phát triển; yếu tố nhận thức của chính phủ về cơ hội tận dụng loại hình du lịch này ở các nước đang phát triển

Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO), DLST là một trong những ngành phát triển nhanh nhất thế giới và là nguồn thu nhập ngoại hối lớn ở các nước đang phát triển. DLST có thể được xem là một chiến lược tiềm năng để bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên, đồng thời, để thúc đẩy sự phát triển bền vững KT-XH của địa phương. DLST là một thị trường thích hợp đang phát triển trong ngành công nghiệp du lịch lớn hơn, với tiềm năng là một công cụ phát triển bền vững quan trọng.

Một số khảo sát liên quan đến DLST:

Trang web booking.com đã thực hiện hai cuộc khảo sát lớn vào năm 2017, mô tả rõ tình hình du lịch hiện tại: trong số 10.000 khách du lịch, 42% cho rằng họ là khách du lịch bền vững, nhưng 65% cho biết họ đã không ở hoặc không biết họ có ở chỗ ở thân thiện với môi trường hay không; cuộc khảo sát thứ hai bao gồm 5700 nơi phục vụ du lịch và 25% báo cáo rằng họ đã có những ý tưởng du lịch bền vững [20].

Trip Advisor thực hiện một cuộc khảo sát năm 2018 về việc ảnh hưởng của sự hỗ trợ mà khách sạn dành cho cộng đồng địa phương tới quyết định lựa chọn khách sạn của du khách, cho kết quả như sau: 71% cho biết họ dự định đưa ra nhiều lựa chọn thân thiện với môi trường và địa phương hơn trong 12 tháng tới, so với 65% đã làm như vậy trong 12 tháng qua [23].

Khảo sát của Nielsen cho kết quả 66% người tiêu dùng trên thế giới nói rằng họ thích mua sản phẩm và dịch vụ từ các công ty đã triển khai chương trình để trả lại cho xã hội, môi trường [19]

DLST ở một số quốc gia:

Du lịch sinh thái ở Hoa Kỳ:

DLST ở Hoa Kỳ thường được thực hiện ở các khu vực được bảo vệ như công viên quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên. Các nguyên tắc và hành vi của du lịch sinh thái đã trở nên phổ biến ở quốc gia này; ví dụ: khách sạn ở một số

vùng phấn đấu để hoạt động thân thiện hơn với môi trường. 417 địa điểm công viên quốc gia tại Hoa Kỳ thuộc quản lý chung của Dịch vụ Công viên Quốc gia (NPS) mang đến cho du khách cơ hội tham gia các hoạt động du lịch sinh thái đích thực. Tổng cộng, các đơn vị NPS đã nhận được 330,8 triệu lượt truy cập giải trí trong năm 2017 [21].

Du lịch sinh thái ở Nam Phi:

Nam Phi đã sử dụng du lịch sinh thái để duy trì và cải thiện sự đa dạng sinh học rộng lớn của mình, cũng như tiếp thêm nguồn lực cho nền kinh tế. Du lịch đem đến nguồn ngoại hối lớn thứ tư ở Nam Phi, và du lịch sinh thái là ý tưởng khuyến khích du khách đồng thời thúc đẩy và hỗ trợ đa dạng sinh học của một quốc gia này. Nam Phi nổi tiếng về sự đa dạng sinh học, vì vậy du lịch sinh thái là cách để đất nước này được hưởng lợi từ động vật hoang dã một cách không tiêu tốn và hợp pháp, trái ngược với các hoạt động phi pháp như săn trộm và buôn bán động vật hoang dã ở nhiều nước cùng trong khu vực Châu Phi [17].

1.2.2 Tổng quan về DLST ở Việt Nam

Sự đa dạng sinh thái ở Việt Nam

Với 134 khu rừng đặc dụng, trong đó có 31 vườn quốc gia, 69 khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hoá, lịch sử nên Việt Nam có lợi thế hơn nhiều nước trong khu vực trong việc phát triển du lịch sinh thái.

Hệ sinh thái ở Việt Nam bao gồm 12 loại điển hình: hệ sinh thái rừng nhiệt đới, hệ sinh thái rừng rậm gió mùa ẩm thường xanh trên núi đá vôi, hệ sinh thái rừng khô hạn, hệ sinh thái núi cao, hệ sinh thái đất ngập nước, hệ sinh thái đầm lầy, hệ sinh thái đầm phá, hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái ngập mặn ven biển, hệ sinh thái biển - đảo, hệ sinh thái cát ven biển, hệ sinh thái nông nghiệp.

Với 350 loài san hô, trong đó có 95 loài ở vùng biển phía Bắc và 225 loài ở vùng biển phía Nam. Bên cạnh 60 vạn ha đất cát ven biển, trong đó có

77.000 ha hệ sinh thái cát đỏ tập trung tại Bình Thuận, Ninh Thuận và tổng diện tích đất ngập mặn của nước ta có khoảng từ 7 – 10 triệu ha nhiều hệ sinh thái điển hình có giá trị cao về khoa học và du lịch với Đồng Tháp Mười là vùng ngập nước tiêu biểu cho khu vực Đông Nam Á. Hệ thống rừng đặc dụng và rừng ngập mặn Việt Nam thuộc loại rừng giàu có về tính đa dạng sinh học với 12.000 loài thực vật ,15.575 loài động vật. Với tiềm năng phong phú và đa dạng, nên ngay từ thời gian đầu của quá trình đổi mới đất nước, việc phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam đã được coi trọng [22].

Theo quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Vịêt Nam đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định 7 khu vực trọng điểm ưu tiên phát triển du lịch, trong số đó đã có tới 5 khu vực là thuộc vùng ven biển:

- Không gian du lịch sinh thái vùng núi và ven biển Đông Bắc bao gồm một phần các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Bắc Thái; các hệ sinh thái điển hình và có giá trị cao được chọn khu vực này là khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Sơn, Hữu Liên (Lạng Sơn); rừng văn hoá lịch sử Pắc Bó; Trùng Khánh (Cao Bằng); VQG Ba Bể (BắcCạn); hồ núi Cốc (Bắc Thái) và hệ sinh thái rừng ngập mặn Quảng Ninh, Hải Phòng.

- Không gian hoạt động của du lịch sinh thái vùng núi Tây Bắc và Hoàng Liên Sơn chủ yếu phần phía Tây của 2 tỉnh Lào Cai và Lai Châu với vùng sinh thái núi cao Sapa - Phanxiphăng và Khu bảo tồn Mường Nhé - nơi đang tồn tại 38 loài động vật quý hiếm cần được bảo vệ như Voi, Bò tót, Gấu chó, Hổ, Sói đỏ...

- Du lịch sinh thái Đồng Bằng Sông Hồng với không gian chủ yếu thuộc các tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình và Thanh Hoá. Các khu bảo tồn thiên nhiên điển hình được chọn cho vùng này là Tam Đảo, Cúc Phương, Ba Vì, Xuân Thuỷ (khu bảo vệ vùng đất ngập nước đầu tiên ở Việt Nam).

Xem tất cả 98 trang.

Ngày đăng: 28/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí