Kết luận chương 2
Như phân tích trên, pháp luật các nước trên thế giới đã quy định chuyển giao hợp đồng. Có những nước tuy chưa quy định minh thị trong luật, nhưng tòa án theo hướng chấp nhận việc chuyển giao hợp đồng. Điều này cho thấy xu hướng pháp luật thế giới đã điều chỉnh quan hệ hợp đồng này. Và khi quy định, họ cũng đều tập trung quy định về: Khái niệm, đối tượng, phương thức, hình thức, điều kiện có hiệu lực, những trường hợp không được chuyển giao, thời điểm có hiệu lực, hệ quả pháp lý; của chuyển giao hợp đồng. Thấy rằng đây những yếu tố cốt lõi, căn bản của chuyển giao hợp đồng. Và những nội dung này đã dự liệu bao quát đầy đủ những yếu tố cần thiết khi quy chuyển giao hợp đồng.
Những yếu tố căn bản, cốt lõi này được tác giả xem xét trên tổng thể thực trạng chuyển giao hợp đồng và quy định pháp luật liên quan của Việt Nam.
Từ việc đúc kết kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài và đối chiếu với điều kiện của Việt Nam như trên, tác giả đưa ra quan điểm của mình và luận giải chi tiết những quan điểm này, hướng đến nội hàm của quy định chuyển giao hợp đồng trong pháp luật dân sự Việt Nam được khoa học, vừa phù hợp với pháp luật liên quan của Việt Nam, vừa phù hợp với pháp luật thế giới, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ chuyển giao hợp đồng. Nên khi ghi nhận giao dịch này trong BLDS 2015, nhà làm luật cần quy định những yếu tố như phân tích trên.
KẾT LUẬN
Qua nội dung phân tích trên, chuyển giao hợp đồng tuy chưa được quy định, điều chỉnh trong BLDS 2015, nhưng trên thực tế, quan hệ này đã diễn ra. Trong số đó, có những mối quan hệ chuyển giao hợp đồng có tranh chấp, cần đến sự giải quyết của Tòa án. Khi giải quyết các tranh chấp này, Tòa không cơ sở pháp lý cụ thể rõ ràng để áp dụng giải quyết, dẫn đến khó khăn cho Tòa; ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của các bên tham gia quan hệ chuyển giao. Những khiếm khuyết do thiếu quy định về chuyển giao hợp đồng trong BLDS 2015 rõ ràng không tạo thuận lợi cho xã hội liên quan đến vấn đề này, và thể hiện sự hạn chế lớn:
- Xét về lý thuyết, thể hiện sự tản mạn, thiếu căn cứ tổng thể làm nền tảng điều chỉnh mối quan hệ chuyển giao hợp đồng. Điều này dẫn đến khi có quan hệ chuyển giao hợp đồng có tranh chấp đến Tòa, Tòa án giải quyết rất lúng túng và mâu thuẫn nhau trong quan điểm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, áp dụng quy định pháp luật liên quan để giải quyết. Dẫn đến các Tòa có cách, kết quả giải quyết khác nhau. Cùng một hệ thống tòa nhưng giải quyết trái ngược nhau. Như vậy, rõ ràng đó là điều không tốt cho nền tư pháp nói chung.
- Xét về thực tế, thể hiện rào cản của dòng giao lưu dân sự, gây thiệt hại cho những người liên quan đến việc chuyển giao hợp đồng. Như đã nói trên, chính vì BLDS 2015 chưa quy định chuyển giao hợp đồng, nên người ta dè dặt, lúng túng trước giao dịch chuyển giao hợp đồng. Khi họ muốn hướng đến giao dịch chuyển giao hợp đồng, họ cũng sẽ không chắc được pháp luật có cho phép hay không? Pháp luật quy định giao dịch này như thế nào? Họ có quyền và nghĩa vụ ra sao? Tòa án sẽ giải quyết như thế nào khi có tranh chấp xảy ra? và rất nhiều thắc mắc khác liên quan. Sự thắc mắc, lo lắng ấy sẽ làm cho họ đắn đo, do dự trước giao dịch. Ngoài ra, khi họ quyết định và đã tham gia vào giao dịch chuyển giao hợp đồng, nếu có xảy ra tranh chấp, thì khi đó, họ cũng không có những cơ sở vững chắc, rõ ràng (những điều luật) để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Điều này không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người tham gia.
Có thể bạn quan tâm!
- Chuyển Giao Hợp Đồng Theo Quy Định Pháp Luật
- Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Chuyển Giao Hợp Đồng
- Thời Điểm Phát Sinh Hiệu Lực Của Chuyển Giao Hợp Đồng
- Chuyển giao hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
Do đó, việc quy định vấn đề chuyển giao hợp đồng trong BLDS 2015 là rất cần thiết và sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho các bên tham gia nói riêng và cho xã hội nói chung. Lợi ích ấy thể hiện ở các nội dung:
- Tạo ra căn cứ chung, nền tảng, làm kim chỉ nam, điều chỉnh quan hệ chuyển giao hợp đồng. Các bên liên quan đến chuyển giao hợp đồng sẽ có hành
lang pháp lý để thực hiện giao dịch này. Và Tòa án sẽ có cơ sở pháp luật minh thị để áp dụng giải quyết tranh chấp của giao dịch này. Như thế, Nhà nước định hướng được quan hệ chuyển giao hợp đồng diễn ra theo chủ định của mình.
- Mở rộng quyền của bên tham gia giao kết hợp đồng, đảm bảo lợi ích chính đáng của chủ thể tham gia giao kết. Khi một người đã giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng, vì lý do nào đó họ không muốn tiếp tục duy trì hợp đồng. Thì theo quy định của BLDS năm 2015, họ sẽ có phương án chấm dứt hợp đồng, như đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng (Điều 428). Theo phương án - điều luật này thì “ bên có lỗi trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt phải bồi thường thiệt hại”. Như vậy, họ đứng trước nguy cơ phải bồi thường thiệt hại do muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng. Với quy định này, rất nặng nề cho họ. Họ không có lựa chọn khác để an toàn, để có lợi hơn (không thiệt hại, ít thiệt hại hoặc ngay cả có lợi nhuận) từ việc chấm dứt hợp đồng. Nên khi pháp luật dân sự quy định về chuyển giao hợp đồng là cho họ giải pháp tốt trong trường hợp họ muốn rút khỏi hợp đồng. Khi đó, họ có thể chuyển giao toàn bộ hợp đồng cho bên thế hợp đồng. Theo đó, có phương án để họ rút khỏi hợp đồng một cách nhẹ nhàng, không phải bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng. Mặt khác, nếu bị đơn phương chấm dứt hợp đồng, bên bị đơn phương chấm dứt cũng có thể bị thiệt hại thực tế nhiều hơn khoản thiệt hại tính toán được, mà bên đơn phương phải bồi thường cho họ theo quy định. Những trường hợp này cho thấy, cả hai bên đều có nguy cơ bị thiệt hại nếu hợp đồng chấm dứt.
Mặt khác, theo lý thuyết, hợp đồng sinh ra là để thực hiện, để mang lại lợi ích cho các bên, cho xã hội. Nên trừ trường hợp ý chí chủ quan của bên tham gia giao kết muốn chấm dứt hợp đồng, thì tất cả các trường hợp còn lại, những khó khăn, vướng mắc liên quan nên được tháo gỡ và tạo điều kiện nhằm cho hợp đồng được thực hiện, hoàn thành.
Nên pháp luật quy định chuyển giao hợp đồng là đã mở rộng quyền lựa chọn cho chủ thể tham gia hợp đồng, và tạo giải pháp giảm thiểu thiệt hại, thậm chí thu được lợi từ việc rút khỏi hợp đồng cho cả 02 bên trong hợp đồng.
- Tạo sự thuận lợi, uyển chuyển trong dòng chảy giao lưu dân sự. Một người, tại thời điểm giao kết hợp đồng, họ có mong muốn, mục đích hướng đến những nhu cầu, lợi ích mà hợp đồng sẽ mang lại, cũng như họ có khả năng thực hiện hợp đồng. Nhưng quá trình thực hiện hợp đồng, vì lý do nào đó, họ không còn khả năng thực hiện hợp đồng hay họ không còn mong muốn, mục đích hướng đến lợi ích của hợp
đồng. Khi đó, họ không muốn tiếp tục bị ràng buộc bởi hợp đồng, mà muốn thoát ra hợp đồng đã giao kết. Mặt khác, đối với những công sức, tài sản mà họ đã bỏ ra để thực hiện một phần hợp đồng, họ cũng cần được thanh toán, đền bù. Trong khi đó, bên còn lại của hợp đồng vẫn muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng này hoặc không muốn thanh toán, bù đắp phần công sức, tài sản mà bên kia đã bỏ ra thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, có người thứ ba, có nhu cầu đối với hợp đồng này. Họ sẵn sàng thế chỗ của bên muốn rút khỏi hợp đồng cũng như họ sẵn sàng thanh toán, bù đắp các khoản chi phí mà bên muốn rút đã bỏ ra thực hiện hợp đồng để tiếp tục thực hiện hợp đồng với bên còn lại. Mỗi bên đều có những điều kiện, nhu cầu, hướng tới lợi ích riêng của mình. Thì trong trường hợp nhu cầu, lợi ích của ba bên đều có điểm chung họ có thể làm nên một giao dịch dân sự ba bên - gọi là chuyển giao hợp đồng. Trong đó, cho phép bên muốn rút, rút khỏi hợp đồng; bên muốn thay thế, tham gia hợp đồng và bên còn lại của hợp đồng được tiếp tục hợp đồng. Theo cách đó, hợp đồng vẫn được duy trì, mà lợi ích, ý chí của các bên vẫn được đảm bảo, thực hiện. Quan hệ dân sự liên quan đến hợp đồng tiếp diễn một cách bình thường, nhẹ nhàng, hài hòa giữa các bên liên quan.
- Giảm thiểu chi phí của xã hội phục vụ cho việc giải quyết tranh chấp liên quan. Trong trường hợp một bên muốn rút, đơn phương chấm dứt hợp đồng, thì hai bên hợp đồng sẽ có mâu thuẫn, tranh chấp. Như vậy, họ sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi Tòa án giải quyết vụ kiện thì Nhà nước, xã hội sẽ mất chi phí cho việc giải quyết. Còn nếu các bên tìm giải pháp tốt, hài hòa hơn – chuyển giao hợp đồng, thì sẽ không có tranh chấp đến Tòa, như thế không mất chi phí, thời gian để Tòa giải quyết vụ kiện. Đây cũng là một lợi ích của việc quy định chuyển giao hợp đồng.
Với tất cả những lý lẽ trình bày trên, cho thấy việc quy định chuyển giao hợp đồng trong BLDS 2015 là cần thiết. Việc này bổ sung về mặt lý luận khoa học pháp lý, và mang lại lợi ích rất lớn cho xã hội.
Với công trình này, tác giả hy vọng góp thêm mảng ghép trong toàn cảnh bức tranh về chuyển giao hợp đồng ở Việt Nam hiện đang sơ khai. Để người đọc có thêm thông tin về vấn đề này, có cái nhìn đa chiều, sâu rộng hơn. Tất cả nhằm cho vấn đề chuyển giao hợp đồng được nhìn nhận ngày một rõ nét hơn, toàn diện; tương xứng với vị trí và nhu cầu của nó trong đời sống xã hội, nhằm hướng đến chính thức quy định chuyển giao hợp đồng trong BLDS 2015.
Bên cạnh mong muốn của mình khi thực hiện đề tài này như vừa nói trên, tác giả hiểu rằng, với sự hiểu biết, kết nối vấn đề của mình còn hạn chế, các nguồn tư liệu hỗ trợ chưa nhiều, nên việc dò dẫm nghiên cứu đề tài chắc chắn còn có nhiều điều thiếu sót, cần bàn luận làm rõ. Do đó, tác giả rất mong người đánh giá đề tài ghi nhận nội dung của đề tài, cũng như tác giả rất mong được tiếp thu, nghiên cứu tiếp đối với những quan điểm, ý kiến, góp ý của quý thầy cô, bạn đọc, để đề tài được hoàn chỉnh hơn.
Tác giả chân thành cảm ơn Qúy thầy cô, bạn đọc đã đánh giá và góp ý đề
tài này.
Trân trọng!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản pháp luật nước ngoài
1. Bộ nguyên nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng.
2. Bộ nguyên tắc Undroit về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004.
3. Bộ luật dân sự Pháp
4. Bộ luật Dân sự Campuchia .
B. Văn bản pháp luật Việt Nam
5. Bộ luật dân sự năm 2015 (Luật số: 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015. 6. Luật Nhà ở năm 2014 (Luật số: 65/2014/QH13) ngày 25/11/2014.
7. Bộ luật lao động năm 2012 (Luật số: 10/2012/QH13) ngày 18/6/2012.
8. Luật Doanh nghiệp năm 2014 (Luật số: 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014.
9. Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và sửa đổi, bổ sung năm 2010 (Luật số: 61/2010/QH12) ngày 24/11/2010.
10. Nghị định 99/NĐ-CP ngày 20/10/2015, qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở.
11. Quyết định số 202 – TTg ngày 02/5/1995 của Thủ tướng Chính phủ ban hành bản qui định về việc khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng và trồng rừng.
C. Tài liệu tham khảo
12. Đỗ Thành Công (2011), “Thực tiễn xét xử về thực hiện nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng chuyển giao bất động sản”, Tạp chí Toà án nhân dân tối cao, Số 22.
13. Ngô Quốc Chiến (2013), “Bộ luật dân sự cần bổ sung quy định về chuyển giao hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 2-3(234- 235).
14. Đỗ Văn Đại (2008), “Chuyển giao nghĩa vụ trong pháp luật thực định Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 01 (237).
15. Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
- Bản án và bình luận bản án, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật.
16. Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
- Bản án và bình luận bản án, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật.
17. Đỗ Văn Đại (2013), Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Tập I, Nxb. Chính trị quốc gia.
18. Đỗ Văn Đại (2014), Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Tập II, Nxb. Chính trị quốc gia.
19. Đỗ Văn Đại (2014), “Chuyển giao quyền yêu cầu trong Bộ luật dân sự”, Tạp chí Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 3(Số Tết).
20. Phan Hải Hồ (2007), “Chuyển giao quyền yêu cầu qua thực tiễn một số vụ án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 2 (179).
21. Lê Minh Hùng (2015), Hiệu lực của hợp đồng, Nxb. Hồng Đức.
22. Trần Thị Hương (2013), Chuyển giao hợp đồng, Hội thảo quốc tế sửa đổi Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 và kinh nghiệm nước ngoài, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
23. NguyễnNgọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp.
24. Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005,tập II, Nxb. Chính trị quốc gia – sự thật.
25. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia.
26. Nguyễn Thị Thủy (2008), “Chuyển giao quyền yêu cầu bồi hoàn trong bảo hiểm tài sản”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại hoc Luật TP. Hồ Chí Minh, Số 5(48).
27. Trường Đại Học Luật Hà Nội (2008), Luật Dân sự Việt Nam, tập II, Nxb. Công an nhân dân.
28. Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2014), Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại về hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam.
PHỤ LỤC THAM KHẢO
Trên cơ sở những nội dung nghiên cứu trên, người viết đề xuất cần bổ sung quy định về chuyển giao hợp đồng trong chế định Hợp đồng của BLDS 2015. Chế định Hợp đồng của BLDS 2015 sẽ có thêm phần “chuyển giao hợp đồng”, bên cạnh 3 phần như hiện tại, là “Giao kết hợp đồng”, “Thực hiện hợp đồng”, “Chấm dứt hợp đồng”. Và những nội dung quy định cụ thể về chuyển giao hợp đồng có thể được phác thảo như sau.
BỘ LUẬT DÂN SỰ
. . .
PHẦN THỨ BA
NGHĨA VỤ VÀ HỢP ĐỒNG
Chương XV.
QUY ĐỊNH CHUNG
Mục 1. CĂN CỨ PHÁT SINH VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA NGHĨA VỤ
. . .
Mục 7. HỢP ĐỒNG
Tiểu mục 1. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
. . .
Tiểu mục 2. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
. . .
Tiểu mục 3. SỬA ĐỔI, CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
. . .
Tiểu mục 4. CHUYỂN GIAO HỢP ĐỒNG
Điều . . . Chuyển giao hợp đồng