Phương Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Và Thực Thi Pháp Luật Về Hợp Đồng Bot Trong Các Dự Án Về Giao Thông Đường Bộ

4.1.3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ

4.1.3.1 Các yêu cầu cơ bản trong định hướng hoàn thiện trong pháp luật và thực thi pháp luật hợp đồng BOT về giao thông đường bộ.

Các Mác đã có một luận điểm nổi tiếng là nhà làm luật cần nhìn vào mình như một nhà thực nghiệm tự nhiên. Nhà làm luật không làm ra luật, không phát minh ra luật mà chỉ hình thành ra nó, thể hiện vào trong các đạo luật tốt và đã nhận thức những quy luật nội tại của các quan hệ tinh thần…

Chính vì vậy, nếu cơ quan xây dựng pháp luật có sự tùy tiện, không dự liệu được trước các tình huống và lấy ý chí, ý tưởng của mình thay cho bản chất của sự việc, hiện tượng thì sản phẩm pháp luật do họ sản sinh ra sẽ không được xã hội chấp thuận.

Điều đó có nghĩa là việc xây dựng các quy phạm pháp luật nói chung, pháp luật về hợp đồng BOT trong xây dựng đường bộ nói riêng không thể là một việc làm tùy tiện. Đó phải là một quá trình vừa sáng tạo, vừa phải tuân thủ nghiêm ngặt những đòi hỏi thuộc về quy luật khách quan của cuộc sống. Định hướng hoàn thiện pháp luật và thực thi pháp luật hợp đồng BOT về giao thông đường bộ phải là một quá trình với sự tuân thủ những yêu cầu sau:

Thứ nhất, quy định pháp luật về hợp đồng BOT trong xây dựng đường bộ phải thể hiện và tuân thủ theo các chính sách, chủ trương, đường lối của Đảng. Một đặc điểm của chế độ chính trị của Việt Nam hiện nay là luôn có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đưa ra các định hướng cho sự phát triển vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đưa ra các đinh hướng cho sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung và tham gia tích cực trong việc ban hành pháp luật. Pháp luật phải có nhiệm vụ thể chế hóa các nghị quyết, chỉ thị của Đảng.

Thứ hai, việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT trong giao thông đường bộ phải đồng bộ, không tách rời với việc hoàn thiện pháp luật VN nói chung và pháp luật thuộc các chuyên ngành có liên quan nói riêng. Luật PPP có mối quan hệ chặt chẽ và và chịu sự tác động của nhiều văn bản pháp quy khác nhau như: Bộ Luật dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư công, ... Do vậy, hệ thống pháp luật ở Việt Nam sẽ khó có thể được hoàn thiện nếu không hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng BOT. Ngược lại, sẽ khó có thể hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT nếu những quy định này không được hoàn thiện một cách đồng bộ với các quy định của pháp luật khác.

Thứ ba, việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT trong giao thông đường bộ phải thu hút được sự quan tâm, tham gia của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, chính sách pháp luật phải thể hiện và đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của nhà đầu tư khi đầu tư vào lĩnh vực giao thông đường bộ thông qua hình thức BOT.

Thứ tư, các quy định của pháp luật về hợp đồng BOT trong kết cấu hạ tầng giao thông phải được hoàn thiện theo hướng thông thoáng, thu hút tối đa nguồn vốn đầu tư đảm bảo môi trường đầu tư thực sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư, pháp luật phải là một hệ thống logic, chặt chẽ, không mâu thuãn, không chồng chéo lẫn nhau. Một hệ thống pháp luật minh bạch, công bằng , bảo đảm sự tồn tại lâu dài của dự án, tránh những rào cản không đáng có, đồng thời làm giảm thiểu rủi ro kinh doanh, từ đó giúp giảm chi phí giao dịch và giao lưu kinh tế sẽ gia tăng.

Thứ năm, pháp luật về hợp đồng BOT trong giao thông đường bộ phải được hoàn thiện hợp với những nội dung cơ bản của pháp luật quốc tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

Thứ sáu, pháp luật về hợp đồng BOT trong giao thông đường bộ phải được hoàn thiện trên cơ sở có sự kết hợp hài hòa giữa tác động của các yếu tố của cơ chế thị trường với vai trò quản lý Nhà nước trong suốt quá trình hình thành,đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng BOT.

Vấn đề quan trọng là xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước đối với hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ. Toàn bộ bộ máy Nhà nước phải góp phần kiến tạo điều kiện để cho hợp đồng BOT được hình thành và thực hiện một cách thuận lợi nhất, giúp cho doanh nghiệp BOT có cơ hội phát triển trong cuộc cạnh tranh ngày càng mang tính quốc tế hóa cao. Muốn vậy, Nhà nước phải không ngừng cải cách, tinh gọn và chuyên nghiệp để nhường bước cho một xã hội công dân lớn mạnh. Tư duy cũ về quản lý Nhà nước về sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh cần được thay đổi và dành một vị trí xứng đáng cho sự điều tiết của cộng đồng, của thị trường. trong giai đoạn hiện nay cải cách thủ tục hành chính là ưu tiên hàng đầu Để thu hút nhiều hơn nữa các hợp đồng BOT cho những dự án về giao thông đường bộ với thời gian dài và có mức độ rủi ro cao. Pháp luật về hợp đồng BOT phải được hoàn thiện theo nguyên tắc tạo ra sự can thiệp của Nhà nước ở một mức độ vừa đủ và phai đáp ứng những yêu cầu sau:

Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao trong các dự án về giao thông đường bộ theo pháp luật Việt Nam hiện nay - 18

- Nhà nước chỉ can thiệp tầm vĩ mô bằng các biện pháp vĩ mô và định hướng, dẫn dắt đối với hoạt động kinh doanh nói chunng và hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ nói riêng. Với những hoạt động mang tính vi mô là các công việc chuyên môn của các chủ thể kinh doanh thì để họ tự quyết định và tự chịu trách nhiệm,nhất là trách nhiệm kinh tế theo nhu cầu của các quy luật thị trường.

- Nhà nước thực hiện các hành vi can thiệp vào hoạt động kinh tế, trong đó có hoạt động đầu tư thông qua hợp đồng BOT phải xuất phát từ hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam, có tính dẫn đến yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay.

- Nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư thông qua hợp đồng BOT bằng nhiều công cụ và biện pháp khác nhau. Nhưng biện pháp và công cụ này không được gây cản trở trong quá trình đầu tư vào các dự án giao

thông đường bộ của nhà đầu tư cũng như không cản trở quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư.

Tiêu chí xác định giới hạn hợp lý cho hành vi can thiệp của Nhà nước vào hợp đồng BOT là kết quả của sự can thiệp đó phải làm cho hệ thống giao thông đường bộ phát triển bền vững, với tính chất đặc thù của ngành GTVT là luôn “đi trước mở đường”. Việc thực hiện hợp đồng BOT về giao thông đường bộ hiệu quả, nhà đầu tư thỏa mãn được lợi ích của mình khi kí kết và thực hiện hợp đồng BOT, nền kinh tế và đời sống xã hội không gặp phải những khó khăn và những biến động bất lợi, việc hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và tạo được niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài.

4.1.3.2 Định hướng hoàn thiện trong pháp luật và thực thi pháp luật hợp đồng BOT về giao thông đường bộ phải gắn với việc hoàn thiện hệ pháp luật bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp nhà đầu tư, lợi ích công cộng.

Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT trong giao thông đường bộ nói riêng và pháp luật về BOT nói chung phải nhằm mục tiêu tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, bảo vệ lợi ích nhà đầu tư, lợi ích công cộng, tạo lập môi trường pháp lý thông thoáng, thuận lợi thúc đẩy cho việc huy động nguồn nhân lực của các nhà đầu tư, góp phần phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Ngoài mục tiêu tổng quát nói trên, việc thực hiện nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT còn hướng tới mục tiêu cụ thể là:

- Đa dạng hóa sự tham gia của nhà đầu tư tư nhân và các dự án phát triển kết cấu hạ tầng thông qua hợp đồng BOT.

- Nâng cao hiệu quả huy động vốn đầu tư ngoài ngân sách để thực hiện các hợp đồng BOT xây dựng công trình kết cấu hạ tầng phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Cải tiến quy trình, thủ tục đầu tư và công tác quản lý nhà nước đối với các hợp đồng BOT nhằm tháo gỡ khó khăn cản trở đối với công việc thực hiện các hợp đồng BOT trên thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuẩn bị đầu tư, đàm phán, ký kết và triển khai hợp đồng BOT.

- Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với hợp đồng BOT.

Cũng như các lĩnh vực pháp luật khác, việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT phải đạt được các yêu cầu chung sau:

- Pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ ở Việt Nam phải thể chế hóa tính đồng bộ, nhất quán và có tính tương thích với các thiết chế và chính sách kinh tế, xã hội của Nhà nước trong phát triển CSHT giao thông bằng nguồn vốn khu vực tư nhân.

- Pháp luật về hợp đồng BOT phải có tính phổ quát cao bởi vì nó là đại lượng như nhau của các chủ thể khác nhau.

- Pháp luật về hợp đồng BOT phải mang tính hệ thống.

- Pháp luật về hợp đồng BOT phải đáp ứng yêu cầu về tính phát triển và cần được thiết kế theo định hướng mở để tiếp tục hoàn thiện.

4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án giao thông đường bộ ở Việt Nam

Khung pháp lý là cơ sở quan trọng nhất quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hợp đồng BOT, đồng thời tạo nên hành lang bảo vệ môi trường đầu tư theo hình thức đối tác công tư BOT. Môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực cao luôn là điều kiện cần cho kênh huy động nguồn lực từ phía đối tác tư cho phát triển cơ sở hạ tầng, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Để hoàn thiện khung pháp lý, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ.

4.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng BOT trong các dự án giao thông đường bộ ở Việt Nam

4.2.1.1 Hoàn thiện về đối tượng hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ ở Việt Nam

Để hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ nói riêng và pháp luật về hợp đồng BOT nói chung thì trước hết cần phải hoàn thiện lý luận về hợp đồng BOT, trong đó có việc xác định đối tương, phạm vi và tinh chất của hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ đúng và đủ, vì như đã phân tích ở chương 3, trong pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công ty (PPP) thì hình thức đầu tư BOT chiếm tới ¾ số lượng các dự án, và trong hình thức đầu tư BOT thì hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ chiếm đại đa số cả về số lượng dự án cũng như nguồn vốn đầu tư (3/4), vì vậy pháp luật về hợp đồng BOT cho lĩnh vực giao thông của Việt Nam cần có một chỗ đứng riêng, vững chắc và bình đẳng như các chế định pháp luật về hợp đồng trong Bộ luật dân sự của Việt Nam, làm cho nó vừa có tính chung vừa có tính đặc thù để bao quát được những đặc điểm và bản chất của hợp đồng BOT, đó là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án để xây dựng, kinh doanh công trinh kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định.

Hiện nay định nghĩa hợp đồng BOT được quy định trong Luật PPP và các quy định pháp luật trước đó đều chỉ có một định nghĩa chung về hợp đồng BOT trong đó xác định vấn đề đối tương, phạm vi và tính chất của hợp đồng BOT nhưng không phân biệt được các lĩnh vực đầu tư khác nhau, vì từng lĩnh vực đầu tư có những đặc điểm rất riêng. Nếu chúng ta không xây xây dựng hoàn thiện được các chế định riêng sẽ gây lên những khó khăn trong quá trình áp dụng và thực thi pháp luật về hợp đồng BOT.

Vì vậy rất cần bổ sung các quy định riêng cho hợp đồng BOT nói chung và hợp đồng trong các dự án về giao thông đường bộ nói riêng: Bộ Luật dân sự Việt

Nam năm 2015 có rất nhiều các chế định điều chỉnh cho nhiều loại hợp đồng khác nhau như hợp đồng cầm cố tài sản, hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng đặt cọc, hợp đồng mua bán,... trong đó nêu rõ các mục hướng dẫn đặc thù cho từng loại hợp đồng. Trong khi đó, hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ với giá trị lên đến nhiều nghìn tỷ đồng, phạm vi ảnh hưởng rộng lại chưa có các chế định đi sâu, cụ thể như vậy sẽ khó khăn cho quá trình mời gọi nhà đầu tư.

Với định nghĩa hợp đồng BOT nêu trên, Nhà nước Việt Nam nhìn nhận hợp đồng BOT từ hai khía cạnh: là một quá trình đầu tư của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án (nhấn mạnh tiến trình từ việc nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đến việc kinh doanh công trình đó và chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam) và mối quan hệ chủ thể. Mặc dù định nghĩa này có những tiến bộ nhất định so với những quy định trước đây và khá tương đồng với một số nước song nguyên tắc thỏa thuận của hợp đồng, tính cấp quyền và tính tài trợ dự án là những thành tố hết sức quan trọng của hợp đồng BOT đã không được thừa nhận và pháp luật Việt Nam vẫn chưa coi đó là những thành phần buộc phải có trong định nghĩa về hợp đồng BOT. Điều này dẫn đến tình trạng hợp đồng BOT chưa được hiểu đúng bản chất của nó và việc điều chỉnh pháp luật về hợp đồng BOT vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, gây e ngại cho các nhà đầu tư khi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung và các dự án về giao thông đường bộ nói riêng theo hợp đồng BOT ở Việt Nam vì nhà đầu tư nhìn thấy vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu sửa đổi định nghĩa về hợp đồng BOT đặc biệt là hợp đồng BOT trong giao thông.

Ngoài ra để tránh sự trái ngược giữa Nghị quyết số 437/NQ- UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định: “Đối với các dự án giao thông đường bộ đầu tư theo hình thức hop đồng BOT chỉ áp dụng đối với các tuyến đường mới để bảo đảm quyền lựa chọn cho người dân, không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo hiện hữu”. Song theo khái niệm về xây dựng theo Khoản 38, Điều 3 Luật xây dựng số 50/2014/QH13 ngày 18/6/2014 quy định thì “thi công xây dựng” lại bao gồm cả xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo…. do đó các chế định pháp luật của nước ta cũng còn có những bất cập, cần được nghiên cứu và hoàn thiện theo một thể thống nhất đảm bảo tính khả thi của quy định khi áp dụng pháp luật.

Từ những phân tích nêu trên, Tác giả xin đề xuất định nghĩa về hợp đồng BOT trong lĩnh vực giao thông đường bộ như sau:

Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) trong giao thông đường bộ là sự thỏa thuận giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án để xây dựng mới công trình; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án được quyền kinh doanh công trình trong

một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền”

4.2.1.2 Hoàn thiện về các nguyên tắc của chế đinh hợp đồng

Pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ là một chế định trong pháp luật về hợp đồng được quy định tại bộ luật dân sự của Việt Nam, vì vậy cần phải tuân theo các nguyên tắc của hợp đồng được quy định tại bộ luật gốc này. Pháp luật hợp đồng càng tin cậy và có hiệu lực thì rủi ro cho các chủ thể tham gia vào giao dịch càng giảm. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ ở Việt Nam, một dạng hợp đồng đòi hỏi nguồn vốn lớn và đầu tư dài hạn. Vì vậy, sẽ khó khăn hơn rất nhiều trong việc thu hút vốn đầu tư theo hợp đồng BOT nếu pháp luật về hợp đồng BOT nói chung và hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ còn nhiều hạn chế. Khó khăn hiện nay trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân vào phát triển hệ thống giao thông đường bộ theo hợp đồng BOT không hẳn do thiếu hụt nguồn vốn mà còn do thiếu một cơ sở pháp luật về hợp đồng vững chắc, đầy đủ và có khả năng giảm thiểu rủi ro do nhà đầu tư. Nhằm phát huy hơn nữa vai trò của chế định hợp đồng BOT đối với các dự án về giao thông đường bộ, pháp luật hợp đồng BOT hiện nay cần hoàn thiện theo hướng sau:

- Pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ cần phải thừa nhận và bổ sung những quy định về nguyên tắc ký kết hợp đồng BOT trong đó cần nhấn mạnh rõ nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, ngăn cản bên nào.

- Việc hoàn thiện pháp luât về hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ phải xét đến đặc trưng riêng có trong pháp luật về hợp đồng của Việt Nam để có hướng xử lý thích hợp.

- Pháp luật về hợp đồng BOT nói chung và hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ nói riêng cần phải thừa nhận và bổ sung những quy định về dự phòng, bảo lãnh và quản lý rủi ro trong việc đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng.

- Pháp luật về hợp đồng BOT cần được hoàn thiện theo hướng tạo ra mức độ quản lý phù hợp của nhà nước đối với hợp đồng BOT nói chung, và hợp đồng BOT đường bộ nói riêng.

- Pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ phải được thiết kế theo hướng mở theo đó hợp đồng không nên hiểu là thứ bất di, bất dịch mà là một công cụ, phương pháp năng động nhằm tạo điều kiện cho những trao đổi và hợp tác.

- Pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ phải được ổn định, minh bạch, đáng tin cậy, dễ tiên liệu, có khả năng dự đoán cao nhằm giảm thiểu các rủi ro và đặc biệt là được ủng hộ bởi các cơ quan hành chính và tư pháp.

4.2.1.3 Hoàn thiện về chủ thể hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ

Như đã phân tích tại chương II, nét đặc thù về mặt chủ thể của hợp đồng BOT chính là sự tham gia của nhà nước thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền của mình. Tính đặc biệt này cần được chú ý bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền không chỉ tham gia với tư cách là chủ thể kinh tế mà còn tham gia với tư cách là chủ thể công quyền, quản lý hoạt động của nhà đầu tư theo hợp đồng BOT. Mặc dù nhà nước là tổ chức quyền lực, song trong quan hệ hợp đồng BOT, nhà nước tham gia với cả 2 chức năng, nhân danh là chủ thể quyền lực và đồng thời là chủ thể thương mại thông thường bởi bản chất của hợp đồng là bình đẳng, thỏa thuận. Vì vậy cần hoàn thiện pháp luật về hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ với các vấn đề sau:

- Để chủ đầu tư có thể dễ dàng xác định được chủ thể đàm phán, ký kết hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ, cần xem xét ban hành danh mục cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng BOT giao thông đường bộ, tiếp đó phân cấp chủ thể ký hợp đồng BOT là các Bộ, Tổng cục, Cục trực thuộc Bộ hay các Sở, Ủy ban nhân dân các cấp theo giá trị hợp đồng BOT.

- Bổ sung quyền và nghĩa vụ của nhà nước, của chủ đầu tư/doanh nghiệp dự án trong hợp đồng BOT. Hiện nay, quyền và nghĩa vụ của nhà nước, chủ đầu hiện được quy định dàn trải, chưa tập trung, thiếu cụ thể, chưa có nền tảng chung, một số nội dung cũng chỉ được quy định chung chung là sẽ được thỏa thuận tùy vào từng hợp đồng BOT cụ thể. Vì vậy cần làm rõ những quyền, nghĩa vụ chung mà doanh nghiệp, nhà nước đều phải thực hiện đối với mọi hợp đồng BOT và những quyền và nghĩa vụ nào thì được đàm phán theo từng hợp đồng dự án.

- Trao đủ quyền cho cơ quan ký kết hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ: tình trạng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền được giao ký kết hợp đồng nhưng lại không có đầy đủ thẩm quyền để đàm phán về tất cả các vấn đề liên quan trong hợp đồng dẫn đến khó khăn cho quá trình đàm phán, thời gian đàm phán bị kéo dài do phải tùy thuộc vào nội dung được ủy quyền, và do phải mất nhiều thời gian xin ý kiến của các cơ quan liên quan. Cơ quan chức năng cần nghiên cứu để trao quyền cho các đơn vị đàm phán, ký kết hợp đồng BOT đảm bảo đủ phạm vi quyền hạn để thương thuyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng bao gồm cả quyền quyết định thương thuyết về những trường hợp phát sinh các vấn đề mới, phức tạp, chưa được quy định cụ thể thay cho việc phải mất nhiều thời gian báo cáo, xin ý.

4.2.1.4 Hoàn thiện các quy định về nội dung hợp đồng BOT và doanh nghiệp dự án BOT trong các dự án về giao thông đường bộ

Nội dung hợp đồng BOT là một vấn đề mấu chốt trong pháp luật về hợp đồng BOT. Để hoàn thiện hơn nữa pháp luật về vấn đề này, một số giải pháp sau cần phaỉ được thực hiện:

* Về điều khoản cơ bản của hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ ở Việt Nam

Với loại hợp đồng đặc thù như hợp đồng BOT trong các dựa án về giao thông đường bộ, pháp luật cần đưa thêm một số điều khoản sau thành điều khỏan cơ bản nhằm đảm bảo tính chặt chẽ, đầy đủ và rõ ràng của hợp đồng:

- Cần xác định quyền của nhà đầu tư trong việc ban hành điều lệ nội bộ cho việc vận hành CSHT nhưng điều lệ đó phải được phê chuẩn bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

- Cần quy định về thỏa thuận các trường hợp đặc biệt cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể lấy lại dự án trước thời hạn nhằm mục đích đảm bảo hiệu quả hoạt động của dự án hoặc trong trường hợp hợp đồng đó đi ngược lại với lợi ích công cộng hoặc trái với trật tự chung của pháp luật.

* Về điều khoản thường lệ của hợp đồng BOT

Quy định pháp luật về điều khoản thường lệ của hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ cần được bổ sung hoàn thiện hơn như sau:

Cần sửa đổi, bổ sung một số điều khoản thường lệ liên quan đến sự hợp lý, lẽ công bằng như một lý do để yêu cầu điều chỉnh quan hệ hợp đồng BOT trong các dự án về giao thông đường bộ hoặc hoãn thực hiện, hoặc chấm dứt nghĩa vụ khi những tình huống cơ bản đã đổi thay, Đây là một vấn đề lớn đối với nhà đầu tư có thể yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thương lượng điều chỉnh hợp đồng khi có những tình huống thay đổi gây ảnh hưởng lớn trong quá trình thương lượng để điều chỉnh hợp đồng khi có những tình huống thay đổi gây ảnh hưởng lớn trong quá trình thực hiện hợp đồng BOT, một hợp đồng với đặc điểm là dài hạn, có nguồn vốn lớn trong khi các bên thường khó đoán biết trước được tất cả các tình huống có thể xảy ra.

4.2.1.5 Sửa đổi hoàn thiện một số quy định liên quan đến thủ tục đầu tư

Khác với các loại hợp đồng thông thường khác, hợp đồng BOT trong các dự án giao thông đường bộ là một thỏa thuận đầu tư bao gồm các cam kết của nhà đầu tư trong việc đầu tư xây dựng công trình giao thông đường bộ và cam kết của nhà nước về việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho việc đầu tư đó. Với tư cách là một phương thức đầu tư, hợp đồng BOT chịu sự điều chỉnh của pháp luật về đầu tư. Như đã trình bày ở các chương trước, những khó khăn vướng mắc liên quan đến thủ tục đầu tư theo hợp đồng BOT là hết sức bức xúc và phức tạp cả về quy mô và mức độ. Do vậy các quy định pháp luật về đầu tư liên quan đến quá trình triển khai thực hiện hợp đồng BOT cần phải được sửa đổi như sau:

Thứ nhất, một số khái niệm liên quan đến hoạt động đầu tư nói chung, hoạt động đầu tư theo hợp đồng BOT nói riêng giữa Luật đầu tư, Luật đất đai và luật xây dựng như khái niệm dự án đầu tư, dự án có vốn đầu tư nước ngoài, dự án đầu tư

Xem tất cả 168 trang.

Ngày đăng: 11/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí