- Các khoản chi trả đó tính trên số đầu gia súc/gia cầm cố định.
Các đãi ngộ đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển: Hiệp định nông nghiệp quy định rằng các nước đang phát triển sẽ không phải cắt giảm các biện pháp trợ cấp sau:
- Trợ cấp đầu tư của Chính phủ.
- Trợ cấp đầu vào cho người sản xuất có thu nhập thấp.
- Trợ cấp dành cho người sản xuất nhằm khuyến khích từ bỏ việc trồng cây thuốc phiện.
2.1.2.3. Trợ cấp xuất khẩu
Như đã đề cập, trợ cấp xuất khẩu được thể hiện qua các Điều 8, 9, 10, 11, 12: quy định về các cam kết trợ cấp xuất khẩu. Nội dung trợ cấp xuất khẩu được hiểu như sau:
Theo các quy định của WTO, trợ cấp có thể là một khoản thanh toán trực tiếp từ ngân sách hoặc cũng có thể là việc nhà nước miễn một khoản phải thu.
Theo Hiệp định nông nghiệp WTO, các nước thành viên phải cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu thông qua các năm trong giai đoạn thực hiện (1995-2000 với nước phát triển và 1995-2004 đối với các nước đang phát triển). Sự cắt giảm này tiến hành với cả hai yếu tố là tổng chi tiêu ngân sách cho trợ cấp xuất khẩu và tổng giá trị hàng xuất khẩu được nhận trợ cấp.
Lịch trình cắt giảm
Phát triển | Đang phát triển | |
Tổng chi tiêu ngân sách cho trợ cấp xuất khẩu | 36% | 24% |
Tổng giá trị hàng xuất khẩu được nhận trợ cấp | 21% | 14% |
Có thể bạn quan tâm!
- Chức Năng, Nhiệm Vụ Các Nguyên Tắc Cơ Bản Của Wto
- Các Yêu Cầu Của Wto Liên Quan Đến Nông Nghiệp Các Hiệp Định Liên Quan Đến Lĩnh Vực Nông Nghiệp
- Các Nội Dung Chính Của Hiệp Định Nông Nghiệp
- Chính Sách Bảo Hộ Nông Nghiệp Cuả Một Số Nước Phát Triển (Mỹ, Eu, Nhật Bản), Và Các Nước Đang Phát Triển (Trung Quốc Và Thái Lan)
- Chính sách pháp luật nông nghiệp Việt Nam và hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế giới - 8
- Cơ Chế Giải Quyết Tranh Chấp Trong Nông Nghiệp Của Wto
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Cụ thể các nước thành viên phải cam kết cắt giảm các biện pháp trợ cấp sau:
- Trợ cấp trực tiếp của chính phủ hoặc các cơ quan chính phủ liên quan đến kết quả thực hiện xuất khẩu.
- Trợ cấp cho nông sản với điều kiện tham gia vào xuất khẩu.
- Việc bán và thanh lý nông sản phi thương mại của chính phủ với giá thấp hơn giá so sánh trên thị trường nội địa.
- Các khoản thanh toán xuất khẩu nông sản do chính phủ thực hiện.
- Các khoản trợ cấp nhằm giảm chi phí tiếp thị xuất khẩu nông sản bao gồm cả chi phí vận chuyển và các chi phí chế biến khác; chi phí vận tải quốc tế và cước phí.
- Phí vận tải nội địa và cước phí của các chuyến hàng xuất khẩu do chính phủ cung cấp hoặc uỷ quyền với điều kiện thuận lợi hơn so với các chuyến hàng nội địa.
Các nước đang phát triển được duy trì các biện pháp cuối.
Trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước có vai trò quan trọng đến phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế. Cụ thể trong trường hợp của Việt Nam, trợ cấp và hỗ trợ của chính quyền là cần thiết và có vai trò quan trọng đối với nông nghiệp trên các khía cạnh sau:
- Trợ cấp góp phần thúc đẩy nông nghiệp và điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp, phát triển kinh tế vùng.
- Trợ cấp góp phần thúc đẩy xuất khẩu.
- Trợ cấp góp phần kích thích sự lan truyền của hiệu ứng tích cực và khắc phục hiệu ứng tiêu cực.
Tuy nhiên, tính tích cực và lợi ích thu được thông qua trợ cấp xuất khẩu không có tính lâu dài, chi phí cơ hội của trợ cấp xuất khẩu thường lớn, làm méo mó quan hệ cạnh tranh và thương bị nước ngoài trả đũa.
2.2. CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT NÔNG NGHIỆP CỦA MỘT SỐ NƯỚC THEO HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP
2.2.1. Xu hướng chung về bảo hộ nông nghiệp
Trong thương mại quốc tế, xu hướng bảo hộ nông nghiệp phát sinh trước tiên tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Liên minh châu Âu và một số nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến khác trên thế giới (trong nhóm CAIRN- các nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới như Canada, Newzealand, Achentina, Australia…). Lịch sử đàm phán nông nghiệp từ trước đến nay (GATT-WTO) về tự do hoá và bảo hộ nông sản luôn diễn ra rất phức tạp.
Riêng đối với Hoa Kỳ, bảo hộ nông nghiệp luôn mâu thuẫn và phức tạp. Trước đây, trong các cuộc thương lượng, trao đổi giữa hai cường quốc là Hoa Kỳ và Anh tại hội nghị Havana (3/1948) và GATT (10/1997), Hoa Kỳ đề nghị tất cả các nước dỡ bỏ mọi hạn chế về định lượng. Tuy nhiên, riêng đối với nông nghiệp, Hoa Kỳ lại muốn đặt vấn đề này ra ngoài vì theo quan điểm của Hoa Kỳ họ có lợi thế so sánh lớn trong việc sản xuất nhiều loại nông sản, và một lý do nữa là các nhà sản xuất nông sản của Hoa Kỳ lo ngại bị kìm hãm sản xuất vì các hạn chế của các nước khác đối với nhập khẩu hàng nông sản. Kết quả là chính do áp lực của Hoa Kỳ, các sản phẩm nông nghiệp được coi là các ngoại lệ trong điều IX của GATT - Liên quan đến việc xoá bỏ những hạn chế về định lượng. Trong thời kỳ này, chế độ trợ cấp nông nghiệp của EC (nay là EU) đã bảo vệ các nhà sản xuất nông nghiệp châu Âu cũng được thiết lập và duy trì.
Quyền miễn trừ cho Hoa Kỳ được duy trì từ năm 1950 đến năm 1995 khi Hiệp định nông nghiệp có hiệu lực. Mặc dù, trong các vòng đàm phán Kennedy (1960) và Tokyo (1970), vấn đề nông nghiệp đã được các nước Hoa Kỳ, Canada, Úc… đưa ra đàm phán, đặc biệt là trong nỗ lực hạn chế một số biện pháp của khối EC vốn lâu nay đã gây thiệt hại cho buôn bán hàng nông sản quốc tế. Tuy nhiên, những nỗ lực của Hoa Kỳ và một số nước đưa nông nghiệp vào khuôn khổ GATT đều thất bại. Xu hướng bảo hộ nông nghiệp vẫn
là xu hướng nổi bật cho đến vòng đàm phán Uruguay - Đàm phán thương mại đa phương.
Trong vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định nông nghiệp đã được ký kết, theo những điều khoản về miễn trừ trong Hiến chương WTO, các quyền miễn trừ đối với các thành viên, kể cả với Hoa Kỳ cũng không thể tồn tại [8].
Có thể nói, Hiệp định nông nghiệp rất phức tạp, nhưng đã cơ bản thống nhất được nhiều vấn đề, hướng thương mại nông sản theo hướng tự do hơn.Về căn bản, Hiệp định xử lý vấn đề nông nghiệp trong bốn nội dung:
Thứ nhất: Nghĩa vụ bỏ dần các hàng rào phi thuế quan và dịch chuyển tác dụng của các biện pháp đó thành thuế quan hay thuế quan hoá (tarrification). Bên cạnh đó, các nước đã đàm phán để xác định những giảm nhượng trong danh mục của họ, nêu rõ mức tăng tối thiểu cho mỗi loại nông sản, những cắt giảm thuế quan và những ràng buộc thuế quan cho mọi nông sản.
Thứ hai: Đã đưa ra các cam kết về cắt giảm hỗ trợ nội địa. Hiệp định đưa ra các biện pháp "hộp xanh" được miễn khỏi những biện pháp này. Tuy nhiên cam kết chung cho các biện pháp không nằm trong danh sách "hộp xanh" là việc cắt giảm từng bước các hỗ trợ trong nước theo các cam kết đã đưa vào danh mục, có tính đến mọi chương trình hỗ trợ làm biến dạng thương mại. Hiệp định nông nghiệp đưa ra khái niệm "lượng trợ cấp tính gộp - (Aggregate Measurement of Support-AMS)". Đây là một quy trình phức tạp để tính toán một con số mà nó ít nhiều biểu trưng cho giá trị hỗ trợ nội địa, và sau đó đưa ra các yêu cầu cắt giảm con số AMS theo thời gian.
Thứ ba: Trợ cấp xuất khẩu. Mặc dù trong quá trình đàm phán, một số quốc gia muốn loại bỏ từng bước rồi loại bỏ trọn vẹn mọi tài trợ xuất khẩu, nhưng đàm phán trong lĩnh vực này dường như có những bước tiến triển chậm, thiếu khả thi. Tuy nhiên, Hiệp định cũng đưa ra một số nghĩa vụ căn bản đưa tới việc dần hạ thấp khối lượng tài trợ xuất khẩu.
Thứ tư: Hiệp định có một điều khoản hoà hoãn; nó thiết lập một nghĩa vụ cho mọi chính phủ, trong vòng 09 năm đầu áp dụng Hiệp định nông nghiệp
(từ năm 1995), hạn chế không áp dụng thuế chống tài trợ trong nước, hoặc khởi động các thủ tục giải quyết tranh chấp đối với một hành vi hay sản phẩm nào đó.
Ngoài ra, Hiệp định nông nghiệp được "gắn liền" với một hiệp định khác là Hiệp định SPS. Trong Hiệp định này đã đề ra nhiều loại tiêu chuẩn hàng hoá và quy định an toàn, y tế đối với các nguy cơ từ các loại sâu bệnh ở động vật, thực vật, các chất phụ gia, chất độc hoặc các tế bào sống gây bệnh trong thực phẩm, thức uống hay các loại thức ăn gia súc.
Mặc dù Hiệp định nông nghiệp đã đi vào hoạt động, các nước phát triển vẫn duy trì thuế quan bảo hộ cao, với mức hỗ trợ cho các sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng. Điều này đã gây cản trở rất lớn cho các sản phẩm nông nghiệp của các nước đang phát triển tiếp cận thị trường các nước phát triển. Có thể thấy rằng, chính sách bảo hộ sản xuất và mậu dịch hàng nông sản, cùng với quá trình tự do hoá thương mại vẫn đồng hành trong chính sách thương mại của các quốc gia. Điều này gây rất nhiều khó khăn trong quá trình đàm phán nông nghiệp đối với các quốc gia đang và chậm phát triển tiếp cận.thị trường các nước phát triển. Có thể nói rằng, chính sách bảo hộ sản xuất và mậu dịch hàng nông sản tồn tại song hành trong chính sách thương mại của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tự do hoá thương mại còn gặp nhiều rào cản.
2.2.2. Tình hình áp dụng các rào cản thương mại nông sản của các thành viên WTO
Hiệp định Nông nghiệp quy định các nước thành viên phải loại bỏ hoàn toàn các hàng rào phi thuế quan và thay thế bằng các biện pháp thuế quan. Hiệp định cũng quy định thành viên phải cắt bỏ các chính sách hỗ trợ trong nước theo các điều khoản cam kết không thuộc diện miễn trừ. Trong quá trình thực hiện các cam kết này các nước thành viên hầu như quan tâm đến các yếu tố sau trong áp dụng.
2.2.2.1. Về tiếp cận thị trường
Một trong các biện pháp mà các nước thường sử dụng để chuyển các hàng rào phi thuế là sử dụng nguyên tắc chênh lệch giá: lấy giá của mặt hàng được bảo hộ trừ đi giá của mặt hàng ấy nhưng trong điều kiện không có bảo hộ. Trên thực tế rất khó xác định giá của mặt hàng trong điều kiện không bảo hộ nên các nước thành viên thường lấy giá quốc tế của các mặt hàng đó. Theo Hiệp định nông nghiệp, thời gian cơ sở được chọn là năm 1986-1988. Tuy nhiên, trong thời gian này giá cả của các nông sản trong nước của một số nước phát triển là rất cao trong khi giá thế giới lại rất thấp. Do đó, mức thuế tương đương với các hàng rào phi thuế quan là rất cao đối với một số mặt hàng tính theo phương pháp này. Vì thế, sau khi áp dụng thuế hoá các nước nhập khẩu nông sản lớn sẽ có mức thuế quan tương đương của một số sản phẩm cao đến mức mà việc nhập khẩu các mặt hàng nông sản này gần như là không thể.
Thuế quan sau khi được thuế hoá đối với một số nông sản
Bơ (360%), Pho mát (289%), trứng (263,3%) | |
EU | Lúa mỳ (388,8%) |
Nhật | Thịt bò (213%, lúa mỳ (167,7%), thịt cừu (144%) |
Mỹ | Đường (244,4%), hạt điều (173,8%), sữa (82,6%) |
Nguồn: UNCTA, TD/B/WG
- Hạn ngạch thuế quan phân bổ không đồng đều và gây tranh cãi:
Sự phân bổ hạn ngạch thuế quan giữa các nước thành viên và giữa các nhóm sản phẩm nông nghiệp cũng rất khác biệt. Hơn 80% hạn ngạch thuế quan tập trung vào 5 trong số 12 nhóm sản phẩm nông nghiệp. Hơn một phần tư tổng số hạn ngạch thuế quan áp dụng cho sản phẩm rau quả. Bốn nhóm sản phẩm khác chịu ảnh hưởng mạnh của hạn ngạch là thịt, ngũ cốc, sản phẩm sữa và hạt có dầu. Ba nước áp dụng hạn ngạch thuế quan cho nhiều mặt hàng nhất là Nauy (232), Ailen (90) và EU (87).
Ngoài ra, việc phân bổ hạn ngạch thuế quan cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Hiện tại, hạn ngạch được các nước phân bổ theo nhiều cách khác nhau như: căn cứ trên nhu cầu, quyền ưu tiên đăng ký trước, đấu thầu v.v...
- Các quy định và tiêu chuẩn về sản phẩm:
Các quy định và tiêu chuẩn về sản phẩm là một trong số các vấn đề về tiếp cận thị trường chủ yếu. Sự khác biệt về tiêu chuẩn sản phẩm giữa các nước cũng như mức độ phức tạp và rắc rối của các quy định này đã gây nhiều khó khăn cho các nhà xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp.
Đối với EU, mặc dù có rất nhiều các Hiệp định song phương với các nước Úc, Canada, Newzeland, Thuỵ Sĩ, Mỹ và Nhật Bản về quy định và tiêu chuẩn sản phẩm, nhưng theo dự đoán, cơ hội tiếp cận thị trường đối với các nhà xuất khẩu nông sản vào thị trường này sẽ còn khó khăn hơn do ảnh hưởng của chính sách an toàn thực phẩm mà EU áp dụng.
- Các biện pháp tự vệ đặc biệt:
Balan, Hungary và Thuỵ Sĩ là những nước bảo lưu được quyền tự vệ cho nhiều mặt hàng nhất với 66%, 60% và 59% cho các dòng thuế nông nghiệp bảo lưu quyền tự vệ đặc biệt. Trên thực tế việc sử dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt đã giảm đi rất nhiều. Từ năm 1995-1999, chỉ có 8 nước và nhóm nước sử dụng biện pháp này. Trong đó, sử dụng biện pháp tự vệ đặc biệt do giá nhập khẩu giảm xuống dưới mức giá lẫy là các nước EU, Nhật, Hàn Quốc, Mỹ, Thuỵ sỹ, Ba lan, Hungary. Do lượng nhập khẩu vượt quá lượng nhập khẩu lẫy là Slovakia (Nguồn WTO).
2.2.2.2. Hỗ trợ trong nước
- Khái niệm AMS còn mang tính danh nghĩa:
Tổng hỗ trợ tính gộp giảm, nhưng hỗ trợ trong nước cho một số sản phẩm cụ thể tăng. Tính đến tháng 4 năm 2000, 30 nhóm nước trong tổng số 136 nước thành viên có cam kết cắt giảm đối với tổng hỗ trợ tính gộp. Tuy vậy, khuôn khổ các cam kết của các nước thành viên vẫn còn là các điều kiện
mang tính danh nghĩa. Việc cam kết cắt giảm tổng hỗ trợ tính gộp là một khái niệm rộng đến mức mà chính phủ các nước thành viên có thể linh hoạt trong việc tăng hỗ trợ của họ đối với một số sản phẩm cụ thể trong khi vẫn tôn trọng cam kết cắt giảm tổng AMS. Đơn cử như Mỹ, từ năm 1997-2000 tổng chi tiêu ngân sách cho lĩnh vực nông nghiệp đã tăng gấp 3 lần, vượt quá cả sự giảm sút trong tổng giá trị sản lượng nông nghiệp của nước này. Trong năm 2000, Mỹ đã cấp gần 30 tỷ USD nhằm thanh toán trực tiếp cho nông dân - một biện phắp trợ cấp không phải cam kết cắt giảm. Và do đó, lượng chi trả trực tiếp này đã vượt hơn một nửa tổng thu nhập ròng trong nông nghiệp.
Bên cạnh đó, nhiều nước phát triển đã nêu ra một số bất cập xuất phát từ thực tiễn áp dụng Hiệp định nông nghiệp liên quan đến cắt giảm hỗ trợ trong nước. Các nước đang phát triển cho rằng, tỷ lệ cắt giảm theo quy định của Hiệp định nông nghiệp là không công bằng khi các nước phát triển vốn có mức trợ cấp lớn được duy trì tới 80% tổng giá trị các khoản trợ cấp bóp méo thương mại (sau 6 năm) trong khi các nước đang phát triển (những nước hầu như không áp dụng các biện pháp hỗ trợ bóp méo thương mại) lại chỉ có thể trợ cấp cho nông dân không vượt quá 10% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của mình (WTO G/AG/NG/W/55 Special and differential treatment for developing countries in world agricultural trade).
Tổng hỗ trợ tính gộp giảm nhưng các biện pháp hỗ trợ trong hộp xanh lá cây và hộp xanh da trời tăng.
Đối với nhiều nước phát triển, đặc biệt là Mỹ, EU, hỗ trợ hộp xanh lá cây đã tăng lên gấp đôi. Điều này chứng tỏ các nước đã cơ cấu lại chương trình hỗ trợ, chuyển các biện pháp bóp méo thương mại theo hướng "ít bóp méo thương mại hơn" bằng cách rút các chương trình hỗ trợ từ hộp hổ phách trong Tổng AMS bị cấm và chuyển vào hộp xanh, do đó tránh được việc phải cắt giảm thật sự hỗ trợ trong nước. Ví dụ, Mỹ, các thanh toán cho nông dân để bù đắp sự chênh lệch giữa giá thị trường và giá được nhận (biện pháp trợ giá-