rồi tiếp đến là vòng Urugoay diễn ra trong bối cảnh của các cuộc khủng hoảng, khủng hoảng chu kỳ gắn liền hoặc liên tiếp xen kẽ khủng hoảng cơ cấu, đưa nền kinh tế vào suy thoái trầm trọng. Trong tình hình khó khăn như vậy, xung đột thương mại giữa các trung tâm kinh tế lớn trở nên gay gắt, rồi bùng nổ dưới hình thức các cuộc chiến tranh thương mại nhằm tranh dành những khoản lợi nhuận đang càng trở nên khan hiếm. Các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh và các hàng rào phi thuế được dựng lên để bảo hộ thị trường trong nước làm cho thương mại quốc tế xấu đi trông thấy. Tình hình đó đặt ra cho các thành viên của GATT yêu cầu khách quan là phải đưa những vấn đề liên quan đến phi thuế vào thương lượng để tìm ra các lợi ích dung hoà cho nhau [17].
Bởi vậy, tại vòng đàm phán thứ 7, vòng Tokyo, với nỗ lực đầu tiên nhằm cải tổ hệ thống, các nước đã đưa ra một loạt các Hiệp định mới với hệ thống quy tắc về hàng rào phi thuế quan. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp chỉ có một số ít các thành viên của GATT (chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển) tham gia vào các hiệp định này. Cho đến vòng đàm phán Urugoay, một số Hiệp định đã được điều chỉnh lại và trở thành các cam kết mang tính nhiều bên. Đó là các Hiệp định về mua sắm chính phủ, về thịt bò, về sản phẩm sữa và về máy bay dân dụng.
Các hệ thống quy tắc của vòng WTO
Trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Điều 6, 16 và 23) Các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
Các thủ tục cấp phép nhập khẩu Mua sắm chính phủ
Định giá hải quan Chống phá giá
Thoả thuận về sản phẩm thịt bò
Thoả thuận về các sản phẩm sữa quốc tế Thoả thuận về mua bán máy bay dân dụng
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách pháp luật nông nghiệp Việt Nam và hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế giới - 1
- Chính sách pháp luật nông nghiệp Việt Nam và hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế giới - 2
- Các Yêu Cầu Của Wto Liên Quan Đến Nông Nghiệp Các Hiệp Định Liên Quan Đến Lĩnh Vực Nông Nghiệp
- Các Nội Dung Chính Của Hiệp Định Nông Nghiệp
- Chính Sách Pháp Luật Nông Nghiệp Của Một Số Nước Theo Hiệp Định Nông Nghiệp
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Nguồn: Đại học Melbourne, Luật Quốc tế - Chương 7, tr. 7.
Tiếp tục phát huy các thành tựu đó, vòng đàm phán cuối cùng trong khuôn khổ hiệp định GATT, vòng Urugoay đã đem đến một bước tiến dài trong nỗ lực của các nước, nhằm cải tổ và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Phạm vi các vấn đề thuộc chương trình nghị sự này rất lớn, bao trùm tới 15 lĩnh vực khác nhau của thương mại quốc tế. Và đặc biệt hơn, chúng mang tính cả gói, theo đó các nước thoả thuận rằng, nếu việc đàm phán trong một lĩnh vực nào đó bị thất bại thì kết quả của tất cả các cuộc đàm phán khác cũng sẽ bị huỷ bỏ. Điều này thể hiện quyết tâm của các nước là muốn đi đến cùng trong việc thương lượng về những lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm như nông sản và hàng vải sợi may mặc, dù biết trước là sẽ có khó khăn.
Với phạm vi chương trình Nghị sự rộng lớn như vậy, việc nảy sinh rất nhiều các mâu thuẫn giữa các bên trong quá trình đàm phán là tất yếu. Để giàn xếp những bất đồng đó, các nước tham gia GATT đã mất gần 8 năm. Trong thời gian đó, các nước đã phải lần lượt tháo gỡ những điểm khúc mắc nghiêm trọng nhất như thương mại nông sản, thương mại dịch vụ, các quy tắc chống bán phá giá và việc thành lập một tổ chức mới. Kết quả là vòng đàm phán có quy mô lớn nhất lịch sử thương mại thế giới này cũng kết thúc thắng lợi, với 28 văn kiện pháp lý được ký kết liên quan đến hầu hết các khía cạnh pháp lý của lĩnh vực thương mại và đặc biệt WTO đã ra đời. Tuy nhiên ghi nhận lại kết quả của 8 vòng đàm phán đều có những khó khăn trong tự do hoá thương mại. Những kết quả của 8 vòng đàm phán cũng là những nội dung mà WTO phải điều chỉnh [17].
Chủ đề đàm phán tại vòng Urugoay
1. Thuế quan
2. Hàng rào phi thuế quan
3. Sản phẩm tài nguyên thiên nhiên
4. Hàng dệt may
5. Nông sản
6. Sản phẩm nhiệt đới
7. Các điều khoản của GATT
8. Các hệ thống quy định của vòng đàm phán Tokyo
9. Chống phá giá
10. Trợ cấp
11. Sở hữu trí tuệ
12. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
13. Giải quyết tranh chấp
14. Thương mại dịch vụ
15. Thế chế hoá hệ thống hợp tác thương mại toàn cầu
1.1.2. Sự khác nhau giữa GATT và WTO
Từ GATT đến WTO là một bước tiến dài của xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền thương mại thế giới do đó, WTO không phải là sự thay thế giản đơn của GATT mà là sự kế thừa và hoàn thiện ở một trình độ cao hơn, có sự biến đổi về chất. Sự khác biệt giữa hai hệ thống này có thể tóm tắt như sau:
Thứ nhất: Sự biến đổi về chất trong mục tiêu hoạt động của WTO. Như đã nêu ở những dòng đầu tiên của Hiệp định thành lập, WTO sẽ kế thừa tôn chỉ mục đích của GATT đó là "nâng cao mức sống, đảm bảo đầy đủ công ăn việc làm, thúc đẩy tăng thu nhập thực tế và nhu cầu thực sự của người dân, mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá, dịch vụ, tận dụng được các nguồn tài nguyên của thế giới sao cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng bền vững và cuối cùng là bảo vệ môi trường đi đôi với phát triển kinh tế". Hơn thế nữa, WTO còn phát triển ở mức cao hơn bằng việc đưa vào phương hướng hành động của mình những điểm rất tiến bộ mà trước đây GATT chưa chính thức tuyên bố, đó là "nỗ lực tích cực để đảm bảo rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia kém phát triển nhất duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển của quốc gia đó. Đây là những thành tựu đặc biệt có ý nghĩa là kết quả của cuộc đấu tranh lâu
dài của các quốc gia nhỏ và yếu thuộc thế giới thứ ba trong việc xây dựng từng bước một "Trật tự kinh tế thế giới mới-New World Order" dân chủ và công bằng hơn, đảm bảo quyền lợi cho những nước đang phát triển [17].
Thứ hai: GATT chỉ là tập hợp các nguyên tắc được thực hiện bởi các bên ký kết hoặc có thể được sửa đổi để hoạt động như một tổ chức nếu tổ chức đó ra đời. Trong khi đó, WTO và các hiệp định của nó mang tính thường trực lâu dài. Với tư cách là một tổ chức quốc tế, WTO có nền tảng vững chắc bởi vì muốn gia nhập WTO, các thành viên phải thông qua cả gói Hiệp định, hàm chứa các nguyên tắc vừa có tính thể chế, vừa có tính cụ thể tạo thành một cơ chế pháp lý đặc thù của WTO và chính các cơ chế pháp lý này đã quy định phương thức vận hành, hoạt động và phát triển của tồ chức này.
Thứ ba: WTO là một tổ chức chặt chẽ có các nước thành viên (members) còn GATT chỉ có các bên ký kết tham gia (contracting parties). WTO có tư cách pháp nhân. Điều này có nghĩa WTO có các quyền, nghĩa vụ và năng lực pháp lý đầy đủ khi tham gia vào các mối quan hệ pháp lý thương mại quốc tế.
Thứ tư: GATT chỉ giải quyết các vấn đề của thương mại hàng hoá, còn lĩnh vực thuộc diện điều chỉnh của WTO rộng hơn nhiều, bao gồm cả thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, thương mại trong đầu tư.
Thứ năm: cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO, về mặt pháp lý mang tính chặt chẽ, tự động và nhanh hơn so với cơ chế của GATT, do vậy mà giảm nguy cơ bế tắc so với hệ thống của GATT. Các phán quyết của WTO cũng có giá trị hiệu lực cao hơn và việc thi hành được đảm bảo hơn.
Tóm lại, sự khác nhau cơ bản giữa GATT và WTO chính là tính hoàn thiện của hệ thống pháp lý hàm chứa trong WTO nhằm điều chỉnh thương mại trong phạm vi toàn cầu. GATT mang tính chất là những thoả thuận tự nguyện giữa các quốc gia, còn WTO là thiết chế pháp lý của hệ thống thương mại thế giới với mục tiêu là thiết lập cơ chế pháp lý, ở quy mô toàn cầu, cho lĩnh vực
thương mại quốc tế, trong đó có những ràng buộc liên quan đến trách nhiệm và cả việc xử lý vi phạm của các nước thành viên WTO.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ các nguyên tắc cơ bản của WTO
Nhiệm vụ của WTO là từng bước xây dựng một môi trường thương mại thế giới tự do và lành mạnh, tạo điều kiện tối đa cho các hoạt động thương mại phát triển, đóng góp vào sự tăng trưởng và thịnh vượng chung của kinh tế toàn cầu. Đồng thời phối hợp với các tổ chức quốc tế khác thúc đẩy nhanh hơn quá trình tự do hoá thương mại và hội nhập toàn diện của nền kinh tế thế giới. Để thực hiện được nhiệm vụ này, WTO có 6 chức năng sau [15]:
1. Tổ chức các cuộc đàm phán đa biên.
2. Xây dựng mới, sửa đổi các nguyên tắc, quy tắc pháp lý quốc tế
3. Giải quyết các tranh chấp về thương mại quốc tế.
4. Đánh giá định kỳ về chính sách thương mại của các nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường.
5. Giám sát việc thực hiện các Hiệp định đa phương của WTO.
6. Phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong việc tham gia hoạch định những chính sách thương mại toàn cầu.
Sáu chức năng này cũng đã được quy định rất rõ tại Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO.
Các nguyên tắc cơ bản của WTO
WTO hoạt động và vận hành theo 6 nguyên tắc cơ bản sau đây:
Nguyên tắc không phân biệt đối xử: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của WTO kế thừa từ GATT. Nguyên tắc này sử dụng hai công cụ pháp lý song song để điều chỉnh mối quan hệ thương mại giữa các thành viên là chế độ Đãi ngộ tối hệ quốc (MFN) và chế độ đãi ngộ quốc gia (NT).
Nguyên tắc Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN)
Theo chế độ này, mỗi thành viên của WTO phải dành, ngay lập tức và không điều kiện cho hàng hoá, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ hay nhà đầu tư của các nước thành viên khác sự đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà mỗi nước thành viên đó đã dành cho hàng hoá, dịch vụ có xuất xứ từ hay được giao tới bất kỳ một nước thành viên nào khác. Nói cách khác, chế độ này dẫn đến kết quả là hàng hoá có xuất xứ từ các nước thành viên được đãi ngộ như nhau trên thị trường tất cả các thành viên khác của WTO. Chế độ MFN là chế độ pháp lý quốc tế hướng vào mục tiêu tạo sự bình đẳng giữa tất cả các nước thành viên của WTO trong thương mại quốc tế.
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT)
Theo chế độ này, mỗi thành viên của WTO phải dành cho hàng hoá, dịch vụ hay quyền sở hữu trí tuệ, nhà đầu tư… của các nước thành viên khác sự đãi ngộ trên thị trường nội địa nước mình (tức là không có những quy định bảo hộ đối với sản phẩm, dịch vụ của nước nhập khẩu so với dịch vụ, sản phẩm của nước xuất khẩu) sau khi hàng đã được nhập khẩu, không kém phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ đã được dành cho hàng hoá, dịch vụ hay quyền sở hữu trí tuệ, hay nhà đầu tư …của chính nước mình.
Nếu như chế độ MFN hướng về sự không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ của một thành viên của WTO với hàng hoá, dịch vụ …của tất cả các thành viên khác của WTO thì chế độ NT hướng về sự không phân biệt đối xử giữa sản phẩm, dịch vụ của nước nhập khẩu …
Nguyên tắc tự do hoá thương mại
Tất cả các nước, kể cả nước nghèo nhất đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế vì mỗi nước đều có lợi thế so sánh tương đối trong việc sản xuất một số loại hàng hoá, dịch vụ. Đó chính là thuyết lợi thế so sánh do nhà kinh tế học Keynes tìm ra từ thế kỷ 19 nền tảng cơ bản của kinh tế học hiện đại. WTO phát triển tư tưởng này lên, không chỉ khuyến khích tham gia mà còn tìm cách tối đa hoá hiệu quả của việc tham gia này thông qua tự do hoá thương mại.
Để tự do hoá thương mại, Chính phủ các nước có thể sử dụng thuế quan để làm công cụ bảo hộ thị trường trong nước, nhưng đòi hỏi phải cắt giảm các hàng rào thuế quan theo một khuôn khổ đã quy định tại GATT 1994 và họ cũng cần xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan như cấm nhập khẩu, ấn định hạn ngạch hoặc các chính sách đối ngoại hỗ trợ xuất khẩu…
Nguyên tắc cạnh tranh
Trên thương trường, các yếu tố nội tại của hàng hoá là điều kiện quyết định khả năng và sức sống của nó. Cơ chế cạnh tranh cho phép nhà sản xuất có được đầu vào đáp ứng đúng yêu cầu của sản xuất, với giá cạnh tranh, người tiêu dùng được hưởng những sản phẩm giá thấp nhất, qua đó nâng cao đời sống nhân dân và nền sản xuất phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả. WTO có định chế điều chỉnh các biện pháp chống bán phá giá hay đánh thuế đối kháng nhằm triệt tiêu tác dụng của việc hàng hoá bị bán phá giá hay được trợ cấp trực tiếp nhằm mục đích hoặc có tác dụng cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên để tránh những sự thực hành thương mại không lành mạnh, cá lớn nuốc cá bé qua bán phá giá và trợ cấp hoặc ngược lại lạm dụng các quy định chống bán phá giá và thuế đối kháng để gây trở ngại trá hình cho thương mại, WTO đã thoả thuận về những quy tắc chặt chẽ điều chỉnh lĩnh vực này.
Nguyên tắc công nhận đa biên về tiêu chuẩn chất lượng
Các nước được khuyến khích công nhận đa biên về tiêu chuẩn chất lượng. Có nghĩa là khi doanh nghiệp chứng minh được hàng hoá, dịch vụ họ đạt được những tiêu chuẩn nội địa tương đương với tiêu chuẩn của nước nhập khẩu thì nước này phải chấp nhận hàng hoá, dịch vụ đó. Tuy nhiên WTO vẫn cho phép các nước được đưa ra những nguyên tắc riêng của mình với điều kiện những nguyên tắc đó phải: Dựa trên cơ sở khoa học, không được gây cản trở lớn cho hoạt động thương mại và không được phân biệt đối xử.
Nguyên tắc minh bạch hoá chính sách
Để thuận lợi hoá cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động thương mại, các nước thành viên phải thực hiện minh bạch hoá chính sách. WTO yêu cầu các nước thành viên phải thiết lập những đầu mối cung cấp thông tin ở hai cấp: Chính phủ và doanh nghiệp. Các đầu mối ở cấp chính phủ đưa ra thông tin về luật lệ, quy tắc điều chỉnh thương mại. Các đầu mối ở cấp doanh nghiệp trực tiếp liên lạc với các nhà kinh doanh, cho họ biết về những khía cạnh thương mại và kỹ thuật trong việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ, tình hình thị trường, các yêu cầu về chất lượng cần có…khi thực thi các biện pháp có ảnh hưởng đến hoạt động thương mại. Các chính phủ phải thông báo công khai ở trong nước và ngoài nước.
Nguyên tắc khuyến khích cải cách hội nhập
Mục tiêu của WTO là đem lại sự phát triển kinh tế cho các nước thành viên. Tuy nhiên nếu tất cả các nước đều tiến hành mở cửa thị trường, cho phép tự do cạnh tranh ngay thì kết quả tất yếu sẽ là sự sụp đổ của các nền kinh tế còn yếu kém. Vì vậy, với các nước đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển cần có sự bảo hộ hợp lý và WTO đưa ra những quy định ưu đãi đáng kể đối với những nước này. Ví dụ miễn giảm bớt nghĩa vụ trong việc thực hiện TRIMS, TRIPS và GATS, thu hẹp phạm vi thực hiện các thoả thuận về thuế quan, được phép áp dụng nguyên tắc về trợ cấp xuất khẩu bị cấm, cho phép áp dụng dài hơn; được phép giới hạn hàng nhập khẩu; đưa ra tổng hạn ngạch cho phép nhập khẩu với từng nước.
1.2 LỊCH SỬ RA ĐỜI HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP TRONG WTO
1.2.1. Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994)
Nông nghiệp là một lĩnh vực quan trọng và gây ra nhiều tranh cãi trong vòng đàm phán Uruguay. Trong lĩnh vực tồn tại ba quan điểm của ba nhóm nước gồm nhóm các nước xuất khẩu, nhóm các nước nhập khẩu và nhóm trung gian là những nước tự túc được lương thực và tuỳ theo từng hoàn cảnh có thể trở thành nước xuất khẩu hoặc nhập khẩu đối với một loại nông sản nhất