Một Số Kết Quả Đạt Được Trong Việc Triển Khai Chính Sách Hội Nhập Quốc Tế Của Việt Nam Giai Đoạn Từ 1995 Đến Nay

mới đất nước và đề ra phương hướng phát triển trong những năm tiếp theo.

Đại hội nhận định tình hình khu vực Châu Á- Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng vẫn tồn tại những nhân tố gây mất ổn định mặc dù xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng. Giữa các nước vẫn xẩy ra tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước, những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở một số nước

Đồng thời Đảng ta cũng nhận định tình hình trong nước vừa có những thuận lợi nhưng cũng có nhiều khó khăn thách thức.

Từ những nhận định trên, Đại hội X đã chủ trương “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” [20, tr.112].

Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh nhiệm vụ của công tác đối ngoại là “giữ vững môi trường hoà bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…” [20, tr.112]. Đặc biệt trong vấn đề hội nhập quốc tế việc “đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước” [20, tr.113-114] được coi làm mục tiêu cao nhất. Mục tiêu của hoạt động đối ngoại là hướng mạnh vào các nhiệm vụ kinh tế- xã hội thiết thực, trong đó “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020” [20, tr.114]. Trước xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang tiếp tục phát triển, Đảng ta coi việc tham gia vào các tổ chức khu vực và quốc tế là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, chúng ta cần “chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa

phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước Châu Á - Thái Bình Dương. “Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)” [20, tr.114].

Đại hội X khẳng định kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Tiếp tục khẳng định và phát triển tư tưởng của Đảng trong các kỳ Đại hội VII, VIII, IX đó là “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” với mong muốn “tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” [20, tr.112].

Trong việc thúc đẩy và tăng cường quan hệ với các quốc gia trên thế giới, Đại hội X không đặt thứ tự ưu tiên quan hệ với các đối tác khác nhau mà nhấn mạnh chủ trương “phát triển quan hệ với tất các các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế” [20, tr.112].

Tóm lại, qua các kỳ Đại hội Đảng, trong chính sách đối ngoại nói chung thì chủ trương đưa đất nước từng bước hội nhập quốc tế một cách vững chắc và có hiệu quả được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Trong một thế giới mà xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang là xu thế chủ đạo, các tổ chức khu vực và quốc tế đang ngày càng lớn mạnh thì việc tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế là một nhiệm vụ cần thiết, là một nhu cầu khách quan và cũng là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta hướng tới. Hội nhập quốc tế vừa đảm bảo được lợi ích quốc gia nhưng vừa giữ được an ninh chính trị và chủ quyền đất nước.‌

2.2. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG VIỆC TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1995 ĐẾN NAY

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.

2.2.1. Mở rộng quan hệ đối ngoại

Gia nhập ASEAN, tăng cường hội nhập khu vực Đông Nam Á

Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay - 7

Sau khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN, với chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin

cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam tiếp tục thúc đẩy, tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam đã thực hiện đẩy đủ mọi nghĩa vụ, cam kết và trách nhiệm của một nước thành viên ASEAN, tích cực và chủ động trong việc đưa ra các sáng kiến nhằm tăng cường hợp tác và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các thành viên ASEAN trên cơ sở các nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong quá trình mở rộng ASEAN, việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN đã mở đường cho quá trình kết nạp Lào, Myanma và Campuchia, đưa ASEAN hội tụ đầy đủ 10 thành viên như ngày hôm nay.

Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động của ASEAN, các Hội nghị cấp cao ASEAN: ASEAN+1, ASEAN+3, Hội nghị Á - Âu (ASEM). Tuy là một thành viên mới trong cộng đồng ASEAN nhưng chúng ta đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ VI (12/1998) tại Hà Nội với tiêu đề: “Xây dựng ASEAN thành cộng đồng các quốc gia phát triển bền vững, đồng đều và hợp tác”. Hội nghị đã thông qua “Tuyên bố Hà Nội”, “Chương trình hành động Hà Nội” và nhiều quyết định quan trọng khác làm cơ sở cho quan hệ hợp tác hiện tại và tương lai giữa các nước ASEAN với nhau cũng như giữa ASEAN với các nước và các tổ chức khác trên thế giới, thể hiện một cách cụ thể những ý tưởng của văn kiện tầm nhìn 2020.

Việc tham gia của Việt Nam vào ASEAN đã góp phần tạo môi trường khu vực thuận lợi cho sự phát triển chung của các quốc gia thành viên, nâng cao vị trí và vai trò của Việt Nam tại Đông Nam Á và trên trường quốc tế, tạo thuận lợi mở rộng quan hệ với các đối tác quan trọng khác trên thế giới.

Sau hơn một thập kỷ tham gia ASEAN, với những nỗ lực mạnh mẽ, được sự hỗ trợ của các nước thành viên và cộng đồng quốc tế, chúng ta đã tạo được lòng tin, sự tín nhiệm và có được sự ủng hộ từ các nước ASEAN và thế giới. Việt Nam đã hội nhập khá nhanh chóng vào các hoạt động của ASEAN và là một thành viên có nhiều đóng góp tích cực vào các chủ trương, mục tiêu và hành động

của ASEAN. Việt Nam đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một nước thành viên, tham gia và có những ý kiến tích cực đóng góp trong các cuộc họp của ASEAN trên mọi lĩnh vực. Tuy là một thành viên mới và đang trong giai đoạn bước đầu của quá trình hội nhập nhưng Việt Nam đã đảm nhiệm tốt chức trách chủ tịch của một số tiểu ban, chủ trì nhiều cuộc họp quan trọng của ASEAN, đặc biệt đã là nước đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN VI tại Hà Nội (tháng 12/1998).

Tháng 4/1999, Việt Nam đã tổ chức lễ kết nạp Campuchia làm thành viên thứ mười của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Từ nay ASEAN đã bước vào một giai đoạn phát triển mới khi có đầy đủ 10 nước thành viên. Một Đông Nam Á bị chia rẽ trong nhiều thập kỷ chiến tranh lạnh đã kết thúc, nhường chỗ cho sự đoàn kết và hợp tác để giải quyết các vấn đề mà các quốc gia cùng quan tâm, thực hiện các mục tiêu mà lãnh đạo các nước ASEAN đã đề ra.

Với một nỗ lực đưa tổ chức ASEAN có những bước phát triển trong thế kỷ XXI, khắc phục những hạn chế đang tồn tại. Lãnh đạo 10 nước Đông Nam Á đã bàn thảo và quyết tâm xây dựng một Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột, đó là: Cộng đồng kinh tế ASEAN, Cộng đồng An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa Xã hội ASEAN. Tuy nhiên, để tiến tới một Cộng đồng ASEAN phát triển trong tương lai thì bản thân mỗi nước thành viên cần phải có nhiều cố gắng trong rất nhiều công việc như: đào tạo nguồn lao động có tay nghề cao; xây dựng chính sách tài chính hợp lý, bảo đảm một nền kinh tế vĩ mô ổn định, minh bạch hóa trong công tác quản lý, xây dựng hệ thống luật pháp hài hóa

Sự phát triển trong tương lai của Cộng đồng ASEAN sẽ có những điểm khó và khác so với Cộng đồng Châu Âu (EU). Điều đó thể hiện qua sự khác biệt lớn giữa các thể chế chính trị, quan điểm xã hội, mặt bằng kinh tế giữa các nước ASEAN, mặc dù giữa các bên đã có nhiều nỗ lực nhằm xóa dần khoảng cách. Bên cạnh đó là những vấn đề như Mianma, vấn đề ly khai ở Thái Lan, vấn đề tranh chấp biên giới giữa các nước thành viêncũng gây những trở ngại lớn đối với tiến trình cụ thể hóa Cộng đồng

ASEAN.

Tăng cường quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ

Sau khi Tổng thống Mỹ tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, từ ngày 5 đến 7 tháng 8 năm 1995, Ngoại trưởng Mỹ W.Christopher thăm Việt Nam và chính thức ký thoả thuận thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước và trao đổi đại sứ. Ngoại trưởng M. Onbrai đã thực hiện hai chuyến thăm làm việc tại Việt Nam vào tháng 6/1997 và tháng 6/1999. Vào tháng 3/2000, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ W.Cohen thăm Việt Nam. Đặc biệt vào tháng 11/2000, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clintơn đã sang thăm chính thức Việt Nam. Đây là một chuyến thăm lịch sử của một vị Tổng thống Hoa Kỳ tới nước Việt Nam thống nhất và độc lập. Chuyến thăm này đã đánh dấu một mốc mới trong lịch sử quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

Về phía Việt Nam, các phái đoàn do Phó Thủ tướng Trần Đức Lương, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triếtđã sang thăm và làm việc với lãnh đạo Hoa Kỳ. Tháng 12/2001, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thực hiện chuyến thăm và làm việc tại Hoa Kỳ. Những chuyến thăm, trao đổi cấp cao và chuyên viên giữa hai nước tạo cơ sở thúc đẩy quan hệ nhiều mặt giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Năm 2005, Thủ tướng Phan Văn Khải sang thăm chính thức Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống G.W.Bush.

Trải qua quá trình 10 năm sau ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, năm 2006 là năm đánh dấu việc bình thường hóa hoàn toàn quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ với việc Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) đối với Việt Nam. Năm 2006, Tổng thống Mỹ G.W. Bush sang thăm Việt Nam nhân dịp dự Hội nghị Cấp cao APEC-14 được tổ chức tại Hà Nội. Chuyến thăm này tạo đà thúc đẩy quan hệ giữa hai nước trong những năm tới. Lãnh đạo hai nước khẳng định tiếp tục nỗ lực thiết lập mối quan hệ ổn định, xây dựng trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hai bên đã đặt được một số thoả thuận

về hợp tác, hỗ trợ quan trọng. Sự tiến triển trong quan hệ giữa hai nước có được nhờ vào sự điều chỉnh chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình khu vực và quóc tế, sự nỗ lực của hai Chính phủ, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước.

Về quan hệ kinh tế, phía Hoa Kỳ cam kết tăng viện trợ phát triển cho Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng chính sách và năng lực phát triển kinh tế, hội nhập vào nền kinh tế thế giới; hỗ trợ trong việc phòng chống HIV/AIDS, chống tội phạm xuyên quốc gia liên quan đến ma tuý; phòng chống dịch cúm gia cầm. Bên cạnh đó, phía Mỹ sẵn sàng hợp tác với Việt Nam trong việc tìm kiếm thông tin về các trường hợp quân nhân ta mất tích trong chiến tranh, thoả thuận cùng nỗ lực để giải quyết vấn đề nhiễm độc môi trường gần các kho chứa điôxin trước đây.

Trên một số lĩnh vực khác, hai bên đã có những hợp tác có hiệu quả. Trong lĩnh vực giáo dục, hàng năm Việt Nam có hàng ngàn sinh viên, cán bộ Việt Nam sang Mỹ để nghiên cứu học tập, nhiều học giả Mỹ đã sang Việt Nam dự các cuộc hội thảo, nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực cụ thể; nhiều chương trình học bổng, hỗ trợ, hợp tác của các tổ chức, các trường đại học Mỹ dành cho sinh viên, học viên Việt Nam. Ngoài ra, còn có nhiều người Việt Nam theo học tự túc tại các trường đại học của Mỹ.

Trong lĩnh vực y tế, khoa học công nghệ cũng có những bước tiến đáng kể. Hoa Kỳ đã có những hỗ trợ hiệu quả trong lĩnh vực nghiên cứu phòng chống các căn bệnh thế kỷ như AIDS, ung thư

Từ khi bình thường hóa đến nay, quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước đã có những bước tiến đáng kể. Việc Tổng thống Mỹ Clintơn tuyên bố miễn áp dụng điều luật Jackson – Vanik đối với Việt Nam đã tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ hợp tác, làm ăn có hiệu quả với các đối tác Việt Nam. Hợp tác kinh tế thương mại đầu tư giữa hai nước tiếp tục phát triển: Năm 1999 là 838,792 triệu USD [40, tr.358], đến năm 2005 đạt 7,5 tỷ USD và năm 2006 đạt

trên 9 tỷ USD [51, tr.418].

Tuy vậy, trong quan hệ ngoại giao vẫn còn tồn tại những vấn đề mà hai bên chưa đi đến sự thống nhất: tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền. Hàng năm, phía Hoa Kỳ có bản báo cáo về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, giữa hai nước vẫn có những bất đồng quan điểm, và chưa hiểu nhau trong việc giải quyết các vấn đề nêu trên.

Tăng cường quan hệ với Trung Quốc

Kể từ khi bình thường hóa (năm 1991) đến nay, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc không ngừng được thúc đẩy nhờ vào sự nỗ lực của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phát triển cả chiều rộng và chiều sâu trên nhiều lĩnh vực từ chính trị, văn hóa, kinh tế, khoa học – kỹ thuật, giáo dục, đào tạođược lãnh đạo hai nhà nước xác định trên tinh thần 16 chữ: Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương laisau đó được bổ sung thêm 4 tốt là “Láng giềng tốt, đồng chí tốt, bạn bè tốt, đối tác tốt”. Nhiều cuộc viếng thăm lẫn nhau của lãnh đạo hai nước, các cấp các ngành từ trung ương đến địa phương. Hai bên đã ký kết nhiều văn bản quan trọng trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là việc ký Hiệp định phân định biên giới trên bộ và Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ. Việc ký kết 2 văn bản quan trọng trên đã giải quyết một vấn đề tồn tại lâu dài giữa hai nước đó là vấn đề biên giới, thúc đẩy quan hệ giữa hai nước và nhân dân hai bên biên giới, đồng thời thực hiện mục tiêu xây dựng biên giới Việt – Trung thành biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài.

Quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều văn bản thoả thuận, trong đó có các hiệp định tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển. “Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế xuất nhập khẩu theo Chương trình thu hoạch sớm” [39, tr. 188]. Đây là văn bản được ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm sớm đi đến hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung

Quốc. Kim ngạch buôn bán hai chiều Việt – Trung liên tục tăng. “Năm 1991 mới đạt 30 triệu USD, đến năm 2001 đã lên tới 2,815 tỷ USD…Hai nước phấn đấu đến năm 2010 đạt 10 tỷ USD” [39, tr. 188-189].

Trong quan hệ đầu tư buôn bán giữa hai nước, Việt Nam đã cấp giấy phép cho nhiều công ty Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam. Các dự án đầu tư của Trung Quốc vào nhiều lĩnh vực và nhiều tỉnh thành của Việt Nam. Tuy vậy, đa số các dự án của Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam còn ở quy mô nhỏ. Chính phủ Trung Quốc đã giúp Việt Nam triển khai hai dự án: “Cải tạo nhà máy gang thép Thái Nguyên và nhà máy phân đạm Bắc Giang bằng nguồn vốn vay ưu đãi là 36 triệu USD và viện trợ không hoàn lại trên 18 triệu USD của Chính phủ Trung Quốc “ [39, tr. 189]

Có thể nói, từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã có nhiều bước tiến trên tất cả các lĩnh vực. Hàng năm, lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước có những cuộc gặp gỡ, hội đàm, trao đổi tình hình mỗi bên nhằm đi tới việc củng cố chắc chắn hơn nữa mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc.

Thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga

Sau khi Liên Xô tan rã, mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước thuộc Liên Xô (cũ) nói chung và với Liên bang Nga nói riêng gặp một số khó khăn nhất định. Sự thay đổi nền chính trị tại Liên bang Nga cũng như những thay đổi trong tương quan lực lượng trên thế giới, sự đảo lộn của tình hình quan hệ quốc tế đã có những tác động mạnh mẽ tới mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga. Tuy vậy, Đảng và Nhà nước ta vẫn xác định mối quan hệ giữa Việt Nam với Liên bang Nga là hết sức quan trọng bởi truyền thống quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô trước đây. Bên cạnh đó, Liên bang Nga còn có vai trò to lớn trong việc gìn giữ hoà bình và an ninh trên thế giới và ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Trong tình hình mới, hàng loạt những hoạt động ngoại giao giữa hai nước nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, đồng thời thúc đẩy quan hệ giữa

Xem tất cả 142 trang.

Ngày đăng: 09/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí