Chính sách an ninh quốc phòng của Triều Nguyễn đối với vùng biên giới phía Bắc 1802 - 1858 - 1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------------------------------


TRẦN THỊ NHUNG


CHÍNH SÁCH AN NINH QUỐC PHÒNG CỦA TRIỀU NGUYỄN ĐỐI VỚI VÙNG BIÊN GIỚI PHÍA BẮC

(1802 - 1858)


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.


HÀ NỘI - 2011

Chính sách an ninh quốc phòng của Triều Nguyễn đối với vùng biên giới phía Bắc 1802 - 1858 - 1

MỤC LỤC


Mở đầu

Lí do chọn đề tài

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Nguồn tư liệu chính

Phương pháp nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu và đóng góp của Luận văn Bố cục của Luận văn

Chương 1: Vùng biên giới phía Bắc trong bối cảnh

Việt Nam thời Nguyễn 13

1.1. Tình hình Việt Nam thời Nguyễn 13

1.2. Vị trí chiến lược của vùng biên giới phía Bắc 20

1.2.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên 20

1.2.2. Đặc điểm cư dân - xã hội 25

1.2.3. Vị trí chiến lược về quân sự 27

Chương 2: Củng cố bộ máy hành chính địa phương, dẹp phản loạn 36

2.1. Quan điểm của các vua Nguyễn về trị nước 36

2.2. Củng cố bộ máy hành chính 39

2.2.1. Bộ máy hành chính trước cải cách Minh Mệnh 40

2.2.2. Cuộc cải cách hành chính của Minh Mệnh năm 1831 45

2.2.3. Sự tác động của cuộc cải cách hành chính của Minh Mệnh 53

2.3. Đối phó với các cuộc nổi dậy trong nước 55

2.3.1. Một số cuộc nổi dậy tiêu biểu 55

2.3.2. Chính sách của triều Nguyễn đối với các cuộc nổi dậy 62

Chương 3: Tăng cường quốc phòng, bảo vệ biên cương 66

3.1. Xây dựng lực lượng quân đội, đối phó với các nhóm Thanh phỉ 66

3.1.1. Xây dựng lực lượng quân đội 66

3.1.2. Xây dựng và củng cố hệ thống thành lũy 71

3.1.3. Đối phó với các nhóm Thanh phỉ 78

3.2. Phát triển kinh tế gắn với an ninh quốc phòng 85

3.2.1. Quản lý hoạt động khai mỏ 85

3.2.2. Kiểm soát hoạt động buôn bán ở vùng biên giới Việt - Trung 91

3.3. Củng cố quan hệ ngoại giao với nhà Thanh 98

Kết luận

Tài liệu tham khảo Phụ lục

MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài

Đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới vấn đề an ninh, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia luôn là mối quan tâm hàng đầu. Tùy vào điều kiện lịch sử, chế độ xã hội và thể chế chính trị của mỗi nước mà khái niệm, nội dung, tính chất và mục tiêu của chính sách an ninh quốc phòng ở mỗi nước có khác nhau. Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam thì khái niệm an ninh được hiểu là trạng thái an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức của từng lĩnh vực hoạt động, xã hội hoặc của toàn xã hội. Liên quan đến phạm trù này còn có các khái niệm an ninh biên giới quốc gia, an ninh chính trị, an ninh quốc gia, an ninh kinh tế, an ninh văn hóa tư tưởng….. Trong số các khái niệm trên, đề tài đặc biệt chú ý đến khái niệm an ninh biên giới quốc gia, được định nghĩa như sau: An ninh biên giới quốc gia là trạng thái yên ổn và vững chắc của biên giới quốc gia, được thể hiện trên các mặt: biên giới quốc gia không bị xâm phạm, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới được giữ vững, hoạt động xã hội và đời sống cư dân biên giới ổn định. Nội dung của nhiệm vụ giữ gìn an ninh biên giới là đảm bảo tính bất khả xâm phạm của biên giới quốc gia (mọi hoạt động làm thay đổi, xê dịch đường biên giới quốc gia và mốc giới quốc gia đều phải do cơ quan cao nhất của nhà nước quyết định; không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong nước có quyền này); đảm bảo sự tuân thủ và tôn trọng pháp luật và quy chế về biên giới, quy chế biên phòng (chống xâm nhập, vượt biên trái phép, phá hoại đường biên giới, lấn chiếm lãnh thổ, xâm canh, xâm cư, cách thức đi đến, cư trú, qua lại biên giới, các hoạt động trong khu biên phòng…); đảm bảo việc tuân thủ các điều ước quốc tế về biên giới. Giữ vững an ninh biên giới quốc gia là trách nhiệm chủ yếu của lực

lượng vũ trang nhân dân (lực lượng an ninh, bộ đội biên phòng, bộ đội phòng không, không quân, hải quân…), các cơ quan quản lý nhà nước và của mọi công dân, trực tiếp là chính quyền và công dân khu vực biên giới [101, tr. 25].

Quốc phòng là công cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học… của nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó có sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ vững hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô. Quốc phòng trở thành hoạt động của các nước trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Quốc phòng phải kết hợp với kinh tế để bảo vệ và xây dựng đất nước. Tổ chức quốc phòng của mỗi nước phụ thuộc trực tiếp vào chế độ chính trị - xã hội, truyền thống dân tộc và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước [101, tr. 848].

Đối với một quốc gia như Việt Nam, luôn phải đương đầu với các thế lực ngoại xâm hiếu chiến và nguy cơ chia cắt đất nước thì vấn đề an ninh quốc phòng luôn được các triều đại phong kiến và các thể chế chính trị đặc biệt coi trọng. Tùy từng giai đoạn lịch sử, căn cứ vào đặc trưng của thể chế nhà nước mà nhiệm vụ và tính chất của an ninh quốc phòng được hiểu khác nhau, nhưng về cơ bản an ninh được hiểu là yên ổn, không có rối loạn. Còn quốc phòng là việc giữ gìn đất nước chống mọi âm mưu xâm lược từ bên ngoài. Hai phạm trù an ninh quốc phòng thường được đi kèm với nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau, thể hiện quan điểm chính trị hay cách thức trị quốc của mỗi ông vua, mỗi triều đại, hay mỗi nhà nước. Lẽ dĩ nhiên, một đất nước không thể có nền an ninh tốt nếu không có quốc phòng vững mạnh và ngược lại.

Triều Nguyễn ra đời trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, mà đặc điểm bao trùm nhất là sự bành trướng của Chủ nghĩa thực dân phương Tây

khiến phần lớn các dân tộc phương Đông rơi vào cảnh nô lệ, phụ thuộc. Hơn nữa, trong lịch sử phát triển của Việt Nam, lần đầu tiên trong lịch sử, triều Nguyễn sở hữu một lãnh thổ rộng lớn từ Bắc vào Nam. Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho nhà Nguyễn ngay từ khi thành lập là phải duy trì ổn định an ninh trong nước, tránh tình trạng chia cắt có thể xảy ra, đồng thời xây dựng tiềm lực quân sự củng cố quốc phòng chống lại nguy cơ xâm lược từ bên ngoài.

Mặc dù cuối cùng nhà Nguyễn đã không giữ vững được nền độc lập, từng bước để đất nước phụ thuộc vào tay thực dân Pháp nhưng không thể nói các vua Nguyễn không chú trọng đến sự an nguy của quốc gia, lơ là vấn đề an ninh quốc phòng. Song song với việc mở rộng và ổn định vùng đất phía Nam, các vua đầu triều Nguyễn cũng tăng cường thiết lập nền cai trị của vương triều ở vùng biên giới phía Bắc. Huế - Phú Xuân được chọn là kinh đô của quốc gia, nhưng nhà Nguyễn vẫn luôn coi Bắc Hà là “trọng trấn”. Đây cũng là nơi tồn tại nhiều thế lực của nhà Lê - Trịnh luôn có tham vọng khôi phục vương triều. Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng chứng minh vùng biên giới phía Bắc là là phên dậu quan trọng bậc nhất của quốc gia và cũng là nơi thường xuyên phải đối đầu với các thế lực xâm lược phương Bắc.

Với vị thế địa chính trị quan trọng như vậy, vùng biên giới phía Bắc luôn được các vua đầu triều Nguyễn đặc biệt quan tâm. Chính sách an ninh quốc phòng của nhà Nguyễn đối với vùng đất này được thể hiện qua nhiều mặt, từ việc củng cố bộ máy hành chính địa phương, dẹp trừ các cuộc bạo loạn nổi dậy, tăng cường xây dựng sức mạnh quân đội để đối phó với những hành động xâm phạm lãnh thổ quốc gia, đe dọa an ninh khu vục biên giới. Các chính sách về kinh tế, văn hóa, đối ngoại liên quan đến vùng biên giới phía Bắc cũng đều có ý nghĩa nhất định về an ninh và quốc phòng. Việc lựa chọn chủ đề “Chính sách an ninh, quốc phòng của triều Nguyễn đối với vùng biên giới phía Bắc 1802 - 1858” làm nội dung nghiên cứu là nhằm chứng

minh thái độ quan tâm của triều Nguyễn đối với vùng được coi là “phên dậu” này. Chúng tôi cũng muốn thông qua việc tìm hiểu vấn đề này để thấy rò hơn chính sách an ninh quốc phòng của triều Nguyễn nói chung.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Triều Nguyễn và lịch sử Việt Nam thời Nguyễn từ lâu đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, đặc biệt là giới sử học trong và ngoài nước. Các công trình nghiên cứu về nhà Nguyễn bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XIX, đề cập đến các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó vấn đề bảo đảm an ninh, củng cố quốc phòng được đề cập ở các mức độ khác nhau. Nhiều bộ giáo trình đại học và các bộ thông sử về thời kỳ quân chủ Việt Nam đã ra mắt độc giả, trong đó tiêu biểu là bộ sách Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập 3, xuất bản năm 1963, Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1 do Trương Hữu Quýnh chủ biên (Nxb Giáo dục, 2002)…Về cơ bản, nội dung các bộ sách kể trên đã phản ánh sự phát triển của lịch sử Việt Nam qua từng giai đoạn và những chính sách của các triều đại phong kiến Việt Nam trong đó có phần triều Nguyễn.

Năm 1921, bộ giản sử Việt Nam bằng tiếng Việt đã được xuất bản là bộ Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Đây là bộ sách nghiên cứu về lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Phần nghiên cứu về lịch sử Việt Nam thời Nguyễn đã nhắc đến việc xây dựng tiềm lực kinh tế, quân sự và củng cố ngoại giao của quốc gia thống nhất. Cũng trong phần này có đề cập đến việc tổ chức đối phó với các cuộc bạo loạn trong nước, đặc biệt là vùng biên giới phía Bắc.

Năm 1952, cuốn sách Sử Việt Nam thời cận kim của Lê Hữu Thu được xuất bản, nghiên cứu về lịch sử Việt Nam từ khi Minh Mệnh lên ngôi đến khi Bảo Đại chính thức kí Hiệp định Hạ Long (1948). Trong chương 1 tác giả đã nhắc đến các chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội và tình trạng loạn lạc xảy

ra ở Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XIX.

Năm 1956, trong cuốn Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, tác giả Đào Duy Anh nghiên cứu lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ

XIX. Phần triều Nguyễn, tác giả đã đề cập đến những chính sách nội trị của triều Nguyễn và sự phản ứng của các tầng lớp nhân dân đối với các chính sách này - Những cuộc nổi dậy của nông dân như Nông Văn Vân, Lê Duy Lương, Lê Văn Khôi…

Trong cuốn Lịch sử Việt Nam tập 1 của Ủy ban Khoa học xã hội (Nxb Khoa học xã hội, 1971) đã tái hiện bức tranh lịch sử Việt Nam từ thời nguyên thủy đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858), trong đó phần thời Nguyễn được nhắc đến với các nội dung: chính sách kinh tế, chính sách ngoại giao, những chính sách đối phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân…

Năm 1998, tác giả Đàm Thị Uyên đã công bố công trình “Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX)” (Nxb Văn hóa dân tộc, 1998). Tác giả đã đi sâu tìm hiểu và phân tích những chính sách của các triều đại phong kiến đối với vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam, bước đầu rút ra những nhân xét xác đáng về tác động của những chính sách này đối với việc duy trì và củng cố quốc gia thống nhất.

Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu ở địa phương các tỉnh biên giới phí Bắc như Địa chí Cao Bằng (Nxb Chính trị quốc gia, 2000), Lịch sử tỉnh Cao Bằng (Nxb Chính trị quốc gia, 2008), Địa chí Thái Nguyên (Nxb Chính trị quốc gia, 2009), Địa chí Lạng Sơn… Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở các tỉnh biên giới thời Nguyễn được nhắc đến ở các công trình này tuy còn ở mức độ sơ lược nhưng cũng là luận cứ quan trọng để đánh giá về những tác động của chính sách an ninh quốc phòng của triều Nguyễn thực thi ở các tỉnh biên giới này.

Cũng nghiên cứu về nội dung này còn có các bài viết, luận văn đăng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/06/2022