Các Nhân Tố Tác Động Đến Tốc Độ Và Chất Lượng Tăng Trưởng.‌

càng cao thì tăng trưởng kinh tế càng bền vững, hạn chế sự phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu của nước ngoài.

Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng thể hiện sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.

Khả năng cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu: Trong thực tế hàng hoá thay thế nhập khẩu thường được bảo hộ bởi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá, việc các nền kinh tế tham gia tích cực vào các tổ chức và các khu vực kinh tế – thương mại quốc tế cho thấy những rào cản bảo hộ này sẽ ngày càng được hạ thấp, tiến tới rỡ bỏ hoàn toàn. Bởi vậy, việc đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước thay thế hàng hoá nhập khẩu là điều quan trọng để nhận biết năng lực sản xuất của đất nước.

Để đo khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước so với hàng hoá nhập khẩu, ta có thể xem xét mức chênh lệch giá cả giữa hai loại hàng hoá, tỷ trọng nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng so với tổng kim ngạch nhập khẩu, mức độ nhập siêu của nền kinh tế.

1.2.2.5. Tác động môi trường:

Đối với các nước đang phát triển giải bài toán bảo vệ môi trường quả là một vấn đề khó, khó ví nhu cầu vốn cho phát triển cần nhiều mà tích lũy thấp, mỗi quốc gia phải tự giải bài toán tối ưu nguồn vốn và tài nguyên môi trường. Bài học của các nước phát triển đang phải trả giá cho việc đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng càng làm cho các nước đang phát triển lúng túng. Vậy để đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường cần xem xét mối tương quan giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với tốc độ cạn kiệt tài nguyên và mức độ ô nhiễm môi trường.

1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỐC ĐỘ VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG.‌


1.3.1. Các nhân tố kinh tế.

1.3.1.1. Lao động:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Lao động là yếu tố sản xuất, nguồn lực sức lao động được tính trên tổng số người ở tuổi lao động và có khả năng lao động trong dân số. Nguồn lao động với tư cách là yếu tố đầu vào, trong sản xuất, cũng giống như các yếu tố khác được tính bằng tiền, giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu sức lao động và biểu hiểu hiện ra là mức tiền lương quy định. Lao động là yếu tố sản xuất đặc biệt do lượng lao động không chỉ đơn giản là số lượng (đầu người lao động hay số giờ lao động) mà bao gồm chất lượng của lao động mà người ta thường gọi là vốn nhân lực, đó là lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành máy móc thiết bị phức tạp, lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế...Do vậy, những chi phí nhằm nâng cao trình độ người lao động - vốn nhân lực, cũng được coi là đầu tư dài hạn cho đầu vào.

Đối với các nước đang phát triển sự tăng trưởng của nền kinh tế chủ yếu được đóng góp bởi quy mô (số lượng) lao động còn yếu tố vốn nhân lực của các nước này còn thấp.

Chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp Việt Nam - 4

1.3.1.2. Nguồn vốn:

Nguồn vốn là yếu tố đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Vốn sản xuất là một bộ phận của tài sản quốc gia được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất hiện tại cùng với các yếu tố sản xuất khác, để tạo ra sản phẩm hàng hoá. Vốn sản xuất bao gồm: máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất. Trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi thì tăng tổng vốn sản xuất trên đầu mỗi nhân lực sẽ làm tăng thêm sản lượng. Tuy nhiên, sự biến thiên của vốn không chỉ đơn giản như vậy, vì nó có liên quan đến nhiều yếu tố khác.

1.3.1.3. Khoa học- Kỹ thuật:

Tiến bộ khoa học kỹ thuật là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng ở các nền kinh tế. Yếu tố công nghệ bao hàm các dạng: thứ nhất, những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm và cải tiến sản phẩm, quy trình công nghệ; thứ hai, là áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. Sự chuyển nhượng và ứng dụng những phát minh tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất là một lợi thế lịch sử của các dân tộc, các nước kém phát triển, vì những chi phí cho việc mua kỹ thuật và công nghệ mới ở các nước đã phát triển đỡ tốn kém thời gian và của cải hơn rất nhiều so với việc phải đầu tư để có những phát minh mới.

1.3.1.4. Tài nguyên thiên nhiên:

Vai trò của tài nguyên được đưa vào sản xuất sản phẩm cho xã hội ngày các mất vị trí, nhưng không ai giám phủ nhận tài nguyên là lợi thế cho các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu tích luỹ tư bản nhưng phải đảm bảo chúng được sử dụng có hiệu quả, không lãng phí. Việc sử dụng tài nguyên là vấn đề có tính chiến lược, lựa chọn công nghệ để có thể sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên của quốc gia là vấn đề sống còn của phát triển. Sử dụng lãng phí tài nguyên có thể được xem như sự huỷ hoại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên.

Như vậy, có thể thấy nguồn gốc của tăng trưởng do nhiều yếu tố hợp thành, vai trò của nó phụ thuộc vào hoàn cảnh và thời kỳ phát triển của mỗi quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, vốn tài nguyên và lao động rẻ đóng vai trò quan trọng. Ngược lại đối với các nước phát triển thì vai trò của vốn nhân lực và tiến bộ khoa học kỹ thuật quan trọng hơn.

1.3.2. Các nhân tố phi kinh tế.

1.3.2.1. Thể chế chính trị - kinh tế:

Thể chế biểu hiện như một lực lượng đại diện cho ý chí của một cộng đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, theo lợi ích của cộng đồng đặt ra. Thể chế được biểu hiện thông qua các mục tiêu phát triển dự kiến, các nguyên tắc tổ chức quản lý kinh tế – xã hội, luật pháp, chế độ, chính sách là các công cụ mà bộ máy tổ chức thực hiện. Thể chế chính trị – xã

hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại, một thể chế không phù hợp sẽ gây ra những cản trở, mất ổn định thậm chí đi đến chỗ phá vỡ những quan hệ cơ bản làm cho nền kinh tế đi vào suy thoái, khủng hoảng trầm trọng hoặc gây ra xung đột chính trị, xã hội.

1.3.2.2. Tác phong người lao động:

Tác phong người lao động thể hiện là sự sắp xếp bố trí công việc một cách khoa học, hợp lý, đứng trước công việc thì giải quyết một cánh khẩn trương, chính xác, hiệu quả.

Tác phong của người lao động là kết quả của sự tích lũy lâu dài của văn hóa, điều kiện cuộc sống và sản xuất

Tác phong của người lao động chuyên nghiệp sẽ giúp cho hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi và cao hơn. Ngược lại tác phong lao động kém sẽ làm cho cá nhân người lao động khó có thể hoàn thành công việc theo yêu cầu, đôi khi làm cản trở sự phát triển của cá nhân và tổ chức kinh tế.

1.3.2.3.Tổ chức quản lý:

Tổ chức quản lý là hoạt động thiết yếu, hoạt động phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm thu được hiệu quả, mà nếu để mỗi người hoạt động đơn lẻ thì không thể đạt được. Như vậy, tổ chức quản lý tốt là hướng người lao động nhằm đạt được mục tiêu đã định và khai thác mức tối đa tiềm năng của mỗi con người cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển.

1.3.2.4. Văn hoá - xã hội:

Văn hoá - xã hội là nhân tố quan trọng, tác động nhiều tới quá trình phát triển của mỗi quốc gia, nhân tố văn hoá - xã hội bao trùm nhiều mặt, từ tri thức phổ thông đến những tích luỹ tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa học, công nghệ văn học, lối sống, phong tục tập quán...Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển cao của mỗi quốc gia. Nhìn chung, trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng lao động, kỹ thuật, trình độ quản lý.

1.3.2.5. Cơ cấu dân tộc:

Cơ cấu dân tộc là tỷ lệ các tộc người khác nhau cùng sống tạo nên một cộng đồng quốc gia. Cơ cấu này có thể phân theo chủng tộc, theo khu vực sinh sống lâu đời tạo ra những khác biệt nhất định, theo tỷ trọng số lượng trong tổng dân số. Do những điều kiện sống khác nhau, đã tạo ra sự khác nhau về trình độ tiến bộ văn minh về mức sống vật chất về vị trí địa lý, vị trí chính trị – xã hội trong cộng đồng. Sự phát triển của tổng thể kinh tế đem đến những biến đổi có lợi cho dân tộc này nhưng bất lợi cho dân tộc khác. Đó chính là những nguyên nhân nảy sinh ra xung đột giữa các dân tộc, mà ta thường thấy hiện nay. Do vậy, phải lấy tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, nhưng lại bảo tồn được bản sắc riêng và các truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc, khắc phục được các xung đột và sự mất ổn định chung của cộng đồng. Điều đó, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng trưởng và phát triển.

1.3.2.6. Cơ cấu tôn giáo:

Vấn đề tôn giáo đi liền với vần đề dân tộc, mỗi tộc người đều theo một tôn giáo. Trong một quốc gia có thể có nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo còn chia thành nhiều giáo phái. Ngoài ra còn nhiều đạo giáo riêng mà chỉ một số tộc người tôn thờ.

Mỗi đạo giáo có những quan niệm, triết lý tư tưởng riêng, ăn sâu vào cuộc sống của dân tộc từ lâu đời, tạo ra những ý thức tâm lý – xã hội riêng của dân tộc. Những ý thức tôn giáo thường là cố hữu, ít thay đổi theo sự biến đổi của sự phát triển kinh tế – xã hội. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung có ảnh hưởng tới sự tiến bộ xã hội tuỳ theo mức độ, song có thể có sự hoà hợp, nếu có chính sách đúng đắn.‌


1.4. VAI TRÒ CỦA CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG NGÀNH.


1.4.1. Các lý thuyết về quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng.

Khi nghiên cứu quá trình tăng trưởng cần phải xem xét một cách đầy đủ hai mặt số lượng và chất lượng của tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa mặt lượng và mặt chất của quá trình tăng trưởng là rất chặt chẽ.

Chất lượng tăng trưởng kinh tế là một khái niệm mang nhiều phần định tính. Nó phản ánh nội dung bên trong của quá trình tăng trưởng, biểu hiện ở phương tiện, phương thức, mục tiêu và hiệu ứng đối với môi trường chứa đựng quá trình tăng trưởng. Khác với chất lượng tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng phản ánh mặt ngoài của quá trình tăng trưởng, thể hiện ở mức độ số lượng lớn nhỏ, nhanh hay chậm của việc mở rộng quy mô.

Tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Tăng trưởng kinh tế về mặt lượng thường diễn ra trước và là điều kiện tiền đề để đẩy mạnh, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng bền vững và hiệu quả, đến lượt nó góp phần tạo ra nhiều của cải, tăng thu nhập...tạo điều kiện bổ sung nguồn lực cho chu kỳ sản xuất sau, và thúc đẩy việc tăng trưởng về mặt lượng. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau và tuỳ theo sự lựa chọn mô hình phát triển khác nhau mà vị trí của mặt số lượng và mặt chất lượng được đặt ra khác nhau. Một số nền kinh tế đi lên từ nước đang phát triển thành nước phát triển trải qua hai giai đoạn cơ bản:

Giai đoạn đầu của quá trình phát triển nền kinh tế huy động mọi nguồn lực cho tăng trưởng về số lượng, tăng trưởng là đầu tàu kéo theo giải quyết các vấn đề khác điều này có nghĩa là giai đoạn đầu này chú trọng tăng trưởng về mặt số lượng khi của cải đã dồi dào khi đó tự khắc nó sẽ giải quyết các vấn đề xã hội.

Giai đoạn sau, khi các chỉ tiêu tăng trưởng đã đạt được một mức độ nhất định thì mới quan tâm đến vấn đề chất lượng của tăng trưởng. Vấn đề đặt ra cho giai đoạn này không phải là đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng là bao nhiêu mà là tính hiệu quả và sự bền vững của các chỉ tiêu ấy như thế nào. Vị trí ngày càng nâng cao của mặt chất lượng tăng trưởng là hoàn toàn phù hợp với xu thế tăng

trưởng dài hạn của nền kinh tế, cũng như phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.

Theo phân tích động thái thay đổi vị trí số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế như trên, có thể thấy mối quan hệ của hai mặt này cũng có những thay đổi theo từng giai đoạn.

Giai đoạn đầu do quan tâm đến mặt số lượng của tăng trưởng nhiều hơn, trong nhiều trường hợp phải bỏ qua yêu cầu của chất lượng tăng trưởng. Mặt số lượng và chất lượng tăng trưởng gần như là hai yếu tố đánh đổi cho nhau.

Giai đoạn sau hai yếu tố này hỗ trợ lẫn nhau thúc đẩy nhau và tạo điều kiện cho nhau cùng hoàn thiện. Chính việc quan tâm đến chất lượng tăng trưởng lại là cơ hội để đạt được mục tiêu về số lượng của tăng trưởng lại tạo ra những hỗ trợ về vật chất cho việc hướng tới chất lượng tăng trưởng tốt hơn.

Việc phân chia vị trí mối quan hệ của hai yếu tố số lượng và chất lượng tăng trưởng theo hai giai đoạn, như phân tích ở trên, mang tính chất tương đối. Mức độ khác biệt giữa hai giai đoạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng phát triển kinh tế – xã hội, quan điểm, chính sách của chính phủ trong quá trình lựa chọn con đường phát triển cho đất nước mình ngoài ra phải kể đến yếu tố bối cảnh quốc tế, xu hướng hội nhập cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết mối quan hệ của hai yếu tố này. Đối với các nước đang phát triển có lợi thế lịch sử có thể khắc phục những khó khăn trong giải quyết mối quan hệ của hai yếu tố số lượng và chất lượng tăng trưởng, dung hoà và giải quyết đồng thời, hợp lý hoá mối quan hệ này ngay từ giai đoạn đầu của quá trình phát triển.

Các nhà kinh tế thế giới đã tổng kết lại ba mô hình tăng trưởng kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng tăng trưởng:

Mô hình 1: Tăng trưởng không bền vững, quy mô của nền kinh tế được mở rộng trong thời kỳ tăng trưởng nhanh, nhưng tại các thời kỳ khác, tăng trưởng kinh tế chậm lại và nền kinh tế suy giảm trì trệ.

Mô hình 2: Tăng trưởng nhanh, mất cân đối phải trả giá bằng những tổn thất to lớn về tài nguyên thiên nhiên, môi trường. Do đánh giá thấp các loại tài sản, nguồn vốn cho nên chậm trễ trong đầu tư, hoặc đầu tư không đúng mức cho

các loại vốn, đặc biệt vốn nhân lực, do đó không nâng cao hiệu quả của vốn hoặc không sản sinh ra vốn mới.

Mô hình 3: Tăng trưởng bền vững nhờ nguồn vốn tích luỹ từ các loại vốn tăng lên theo thời gian một cách cân đối. Chính phủ tập trung đầu tư nhiều hơn cho khu vực kinh tế công cộng như giáo dục, y tế và bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Vốn nhân lực được tiếp sức có giá trị tăng cao hơn, tạo điều kiện đổi mới công nghệ và tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP).

Như vậy, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn vốn vật chất thì không thể bền vững.


1.4.2. Vai trò chất lượng tăng trưởng công nghiệp.

Ngày nay, ngành công nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của nền kinh tế Việt Nam và có vai trò quyết định trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngành công nghiệp thúc đẩy ngành nông nghiệp và dịch vụ phát triển theo. Công nghiệp vừa tạo ra thị trường vừa tạo ra những điều kiện cần thiết như tư liệu sản xuất cho các ngành khác phát triển.

Chất lượng tăng trưởng công nghiệp càng ngày càng cao đồng nghĩa với việc năng suất và giá trị gia tăng ngày càng tăng cao làm gia tăng thuế, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tăng lích luỹ cho doanh nghiệp, tăng thu nhập cho dân cư, tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước.

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 25/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí