Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam - 2

gian và vốn kiến thức còn ít ỏi, kinh nghiệm chưa nhiều, khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô trong trường và sự góp ý của bạn đọc.

Em xin chân thành cảm ơn các cán bộ và lãnh đạo Cục Quản lý cạnh tranh, Cục Sở hữu trí tuệ và đặc biệt là cô giáo, ThS. Lê Thị Thu Hà, đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ, cung cấp tài liệu quý báu để em có thể hoàn thành khóa luận này.

CHƯƠNG I‌‌

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU


I. Nhãn hiệu và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

1. Nhãn hiệu

1.1. Khái niệm nhãn hiệu

Trong nền kinh tế thị trường, nhãn hiệu có vai trò đặc biệt quan trọng khi nó được coi như một công cụ tạo ra sự khác biệt cho các sản phẩm trên thị trường, tạo dựng lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, thu hút khách hàng, tạo dựng niềm tin cho người tiêu dùng, tạo dựng giá trị trong quá trình củng cố ấn tượng từ người tiêu dùng đối với các hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Uy tín của nhãn hiệu gây ấn tượng với người tiêu dùng còn tạo sức mạnh đẩy lùi hàng ngoại tại thị trường nội địa và có khả năng đứng vững trên thị trường nước ngoài, củng cố sức cạnh tranh của hàng hóa trên trường quốc tế [3, tr. 40].

Dựa vào chức năng của nhãn hiệu hàng hóa, có thể định nghĩa: “Nhãn hiệu hàng hóa là một dấu hiệu dùng để nhận biết hàng hóa của một nhà sản xuất và phân biệt chúng với các nhà sản xuất khác”[20].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Trên cơ sở quan điểm trên, mỗi nước đưa ra các dấu hiệu cụ thể có thể được bảo hộ làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu được coi là nhãn hiệu ở mỗi nước là khác nhau. Có những dấu hiệu có thể được coi là nhãn hiệu tại quốc gia này nhưng lại không được bảo hộ tại quốc gia khác. Sự khác biệt trong khái niệm nhãn hiệu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như: trình độ nhận thức của người tiêu dùng ở mỗi quốc gia, đặc điểm thị trường, yếu tố văn hóa, đạo đức truyền thống và thói quen sử dụng hàng hóa, dịch vụ của người tiêu dùng... Để cụ thể hóa nhận xét trên, khóa luận xin đưa ra một số khái niệm nhãn hiệu được quy định trong luật pháp của các quốc gia Hoa Kỳ, Pháp và Trung Quốc và Australia.

Tại Hoa Kỳ, khái niệm nhãn hiệu hàng hóa được quy định trong Luật nhãn hiệu hàng hóa (Lanham Act năm 1946). Theo đó, nhãn hiệu hàng hóa bao gồm “bất kỳ từ ngữ, tên, biểu tượng, hình ảnh hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó được sử dụng hoặc sẽ được sử dụng trong thương mại để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của nhà sản xuất, kinh doanh này với hàng hóa, dịch vụ của nhà sản xuất khác và để chỉ dẫn nguồn gốc của hàng hóa[…]” [35].

Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam - 2

Khái niệm nhãn hiệu được quy định tại Bộ luật Sở hữu trí tuệ của Pháp cũng khá tương đồng với khái niệm nhãn hiệu hàng hóa của Hoa Kỳ, trong đó quy định:

“Nhãn hiệu hàng hóa hoặc nhãn hiệu dịch vụ là dấu hiệu có thể biểu thị bằng đồ hoạ có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của cá nhân hoặc pháp nhân. Dấu hiệu có thể bao gồm: i)từ ngữ, sự kết hợp của từ ngữ, tên họ và tên địa lý, tên bút danh, chữ cái, chữ số, chữ viết tắt; ii)dấu hiệu có thể nghe được như âm thanh, đoạn nhạc; iii)dấu hiệu hình như hình ảnh, nhãn sản phẩm, dấu , đường viền, khắc chạm nổi, hình ảnh ba chiều, logo, hình dáng sản phẩm hoặc bao bì sản phẩm, sự kết hợp , sự sắp xếp hoặc sắc thái của màu sắc”[36].

Các dấu hiệu được coi là nhãn hiệu hàng hóa theo quy định của Luật nhãn hiệu hàng hóa Trung Quốc năm 2001 bao gồm: từ ngữ, hình ảnh, chữ cái, chữ số, dấu hiệu ba chiều, sự kết hợp của màu sắc, và sự kết hợp của các yếu tố đó có thể được đăng kí là nhãn hiệu hàng hóa [37].

Theo pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa của Australia, “âm thanh, mùi vị có thể được đăng kí. Thêm vào đó, nhãn hiệu hàng hóa được đăng kí ngay cả khi chúng không có sẵn tính phân biệt với điều kiện là nhãn hiệu hàng hóa đó đã đạt được tính phân biệt thông qua sử dụng” [8, tr. 16].

Tại Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã định nghĩa nhãn hiệu như sau: “nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều, hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể

hiện bằng một hay nhiều màu sắc” “có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác” [16].

Như vậy qua việc tìm hiểu quy định của các quốc gia khác nhau về nhãn hiệu, có thể nhận thấy rằng khái niệm nhãn hiệu được quy định trong pháp luật Việt Nam và pháp luật của các nước là khá tương đồng, tức là đều dựa vào chức năng cơ bản của nhãn hiệu để quy định rằng nhãn hiệu là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể sản xuất, kinh doanh khác nhau trên thị trường.

Tuy nhiên, phạm vi các dấu hiệu cụ thể được cơ quan đăng kí bảo hộ làm nhãn hiệu tại các quốc gia trên thế giới rộng hơn phạm vi các dấu hiệu được bảo hộ làm nhãn hiệu tại Việt Nam. Tại Việt Nam, các dấu hiệu được bảo hộ làm nhãn hiệu chỉ được giới hạn ở: từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, hình ba chiều, hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng một hay nhiều màu sắc. Trong khi đó, tại các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, phạm vi các dấu hiệu được bảo hộ làm nhãn hiệu đã được mở rộng, bao gồm cả các dấu hiệu âm thanh như ở Pháp và các dấu hiệu mùi vị như ở Australia. Chính sự khác biệt về trình độ phát triển, trình độ nhận thức của người tiêu dùng, trình độ quản lý cũng như khả năng thực thi quyền sở hữu công nghiệp của mỗi quốc gia đã tạo ra sự khác biệt trong khái niệm nhãn hiệu. Do vậy, trong điều kiện hội nhập mạnh mẽ như hiện nay, pháp luật về nhãn hiệu của Việt Nam cần có những quy định sửa đổi, bổ sung các dấu hiệu về nhãn hiệu cần được bảo hộ cho phù hợp với quy định của các điều ước quốc tế, thông lệ quốc tế, sự phát triển kinh tế - xã hội và đòi hỏi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam hiện nay.

Dựa theo tính chất các dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu, có thể phân loại dấu hiệu thành các nhóm cơ bản sau: dấu hiệu hình, dấu hiệu chữ, dấu hiệu màu, dấu hiệu âm thanh, dấu hiệu mùi vị, dấu hiệu ba chiều…

Nhãn hiệu hàng hóa có nhiều cách phân loại. Xét dưới góc độ phân loại đối tượng hàng hóa, dịch vụ mà nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng thì nhãn hiệu bao gồm nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. Thông thường, các văn bản quy phạm pháp luật các nước thường dùng thuật ngữ nhãn hiệu/nhãn hiệu hàng hóa để chỉ chung cả nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. Theo chức năng và cách thức sử dụng, nhãn hiệu bao gồm: nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận.

1.2. Chức năng của nhãn hiệu

Thông thường, một nhãn hiệu có những chức năng chính sau: chức năng phân biệt; chức năng chỉ dẫn nguồn gốc hoặc xuất xứ; chức năng bảo đảm chất lượng và chức năng quảng cáo [32, tr. 22].

a. Chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của nhãn hiệu

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các chủng loại hàng hóa, dịch vụ ngày càng trở nên đa dạng, phong phú. Muốn chọn lựa được hàng hóa, dịch vụ phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng tài chính của mình, người tiêu dùng phải dựa vào các dấu hiệu hay nhãn hiệu hàng hóa mà các cơ sở sản xuất, kinh doanh gắn trên sản phẩm hay bao bì sản phẩm khi đưa ra thị trường. Như vậy, với chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ, nhãn hiệu cho phép người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm bán dưới nhãn hiệu đó với những hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp khác bán trên thị trường. Đây đuợc coi là chức năng quan trọng nhất của nhãn hiệu hàng hóa.

b. Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ

Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc không có nghĩa là nhãn hiệu phải thông tin cho người tiêu dùng về người thực sự sản xuất ra sản phẩm hay người kinh doanh sản phẩm mà chỉ cần sao cho người tiêu dùng có thể tin tưởng vào doanh nghiệp có trách nhiệm về hàng hóa bán ra mang nhãn hiệu đó. Như vậy, nhìn vào nhãn hiệu, người tiêu dùng có quyền nghĩ rằng các sản phẩm

mang nhãn hiệu đều có cùng nguồn gốc hoặc có mối liên hệ giữa các nhà sản xuất khác nhau sử dụng nhãn hiệu giống nhau.

c. Chức năng bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ

Chức năng chất lượng đảm bảo cung cấp cho người tiêu dùng về các thông tin của sản phẩm như chất lượng và giá cả của sản phẩm, qua đó người tiêu dùng có thể chọn được hàng hóa mong muốn và phù hợp với nhu cầu. Hay nói cách khác, nhãn hiệu có chức năng thông tin gián tiếp về sản phẩm.

d. Chức năng quảng cáo

Thông qua vai trò cá thể hóa sản phẩm bằng các dấu hiệu và màu sắc nhất định, nhãn hiệu còn có chức năng quảng cáo cho sản phẩm của doanh nghiệp, giúp sản phẩm sớm đến tay người tiêu dùng.

2. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

2.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

Để hiểu thế nào là bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, trước hết cần tìm hiểu thế nào là quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, các đặc trưng cơ bản của quyền này là gì.

Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là một trong những quyền dân sự [5,tr. 25]. Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 thì : “Quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”. Từ đó, có thể hiểu quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức (chủ thể) đối với nhãn hiệu (khách thể) và quyền được áp dụng các biện pháp hợp pháp để ngăn chặn và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động đăng kí cũng như trong quá trình sử dụng nhãn hiệu.

Trên thế giới, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa có thể được xác lập trên cơ sở sử dụng nhãn hiêu trên thực tế hoặc trên cơ sở văn bằng bảo hộ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp. Cụ thể tại Việt Nam, quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu do Cục Sở hữu trí tuệ cấp [6].

Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có các thuộc tính như sau:

Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa bị giới hạn về thời gian. Quyền này chỉ có hiệu lực trong thời hạn của văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ cũng như theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia thì Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu có hiệu lực trong vòng 10 năm kể từ ngày cấp. Chủ sở hữu nhãn hiệu có thể xin gia hạn hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng kí nhiều lần, mỗi lần kéo dài 10 năm.

Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bị giới hạn về không gian. Cụ thể, quyền này chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà trên cơ sở các quy định pháp luật nước đó, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu phát sinh. Hay nói cách khác, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu mang tính lãnh thổ triệt để. Nghĩa là, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu chỉ được xác lập trên cơ sở pháp luật của chính quốc gia đã công nhận bảo hộ quyền đó và quyền này cũng chỉ có hiệu lực trong phạm vi nước công nhận bảo hộ[38]. Chẳng hạn, nhãn hiệu của các chủ thể nước ngoài muốn được bảo hộ tại Việt Nam thì khi đăng kí phải dựa vào các quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của Việt Nam. Ngược lại, các nhãn hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam như Trung Nguyên hay VINATABA đã được đăng kí bảo hộ tại Việt Nam nhưng vẫn có thể được bảo hộ tại các nước khác nếu đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ của các nước đó.

Nội dung của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là quyền được độc quyền sử dụng và cấm người khác sử dụng nhãn hiệu đã được bảo

hộ nếu không được chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép. Và quyền độc quyền này chỉ giới hạn đối với hành vi sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của một chủ thể khác vì mục đích thương mại, chứ không áp dụng trong các trường hợp vì mục đích phi thương mại. Hơn nữa, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu chỉ áp dụng đối với nhóm sản phẩm/dịch vụ mà nhãn hiệu đã đăng kí mà không mở rộng bảo hộ đối với các sản phẩm/dịch vụ khác[7, tr5-12]. Ngoài ra, vì Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu được quyền gia hạn nhiều lần nên quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là vô hạn với điều kiện nhãn hiệu vẫn duy trì được tính phân biệt trong thời gian sử dụng.

2.2. Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

Từ những đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu như trên, suy ra bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là một chính sách rất cần thiết của Chính phủ nhằm chống cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng, bên cạnh các biện pháp tự bảo vệ mang tính chủ động của chủ sở hữu nhãn hiệu.

Theo Từ điển tiếng Việt, “bảo hộ” có nghĩa là bảo vệ, giữ gìn và che chở. Như vậy, hiểu một cách khái quát thì bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là sự bảo vệ của Nhà nước, của xã hội đối với quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu. Cụ thể hơn, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là sự bảo đảm của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cho các chủ thể là cá nhân, tổ chức, bảo vệ quyền đó và chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của người khác. Nhà nước, tổ chức cơ quan xác lập quyền quy định thủ tục, trình tự để xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho các đối tượng sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu phải đăng ký. Muốn được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, các chủ thể

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí