Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Liên Quan Đến Nhãn Hiệu

lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu nói riêng, khóa luận xin phân tích các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong luật chuyên ngành là Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Theo Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 thì các hành vi sau bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến lĩnh vực sở hữu công nghiệp nói chung:

a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ;

b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ;

c) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;

d) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng[16].

Theo khoản 2 Điều 130, chỉ dẫn thương mại trong quy định trên là các “dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hóa, nhãn hàng hóa” [16].

Như vậy, hai hành vi cạnh tranh không lành mạnh đầu tiên được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ là tương đồng với hành vi cạnh tranh không

lành mạnh đầu tiên trong Luật Cạnh tranh, đó là hành vi “chỉ dẫn gây nhầm lẫn”. Các đối tượng (chỉ dẫn thương mại) mà các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sử dụng để gây nhầm lẫn được liệt kê tại khoản Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ cũng chính là các đối tượng thuộc phạm trù “chỉ dẫn” được quy định tại Luật Cạnh tranh. Tuy nhiên, có thể nhận thấy một điều là phạm vi điều chỉnh của Luật Sở hữu trí tuệ đối với các chỉ dẫn thương mại có thể được sử dụng để thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh rộng hơn (một cách tương đối) so với quy định trong Luật Cạnh tranh. Cụ thể, theo quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Cạnh tranh, đối tượng “nhãn hiệu” không được liệt kê trong khái niệm “chỉ dẫn”, và khái niệm “chỉ dẫn” ở đây được đặt trong trạng thái mở, bao gồm “tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác theo quy định của Chính phủ”[17].

Hơn nữa, Luật Sở hữu trí tuệ còn đưa ra định nghĩa rất cụ thể về nhãn hiệu, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý… . Trong khi đó, những khái niệm này không được định nghĩa trong Luật Cạnh tranh, trong khi đây là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hóa, dịch vụ, là cơ sở quan trọng để khách hàng nhận biết sản phẩm cùng loại trên thị trường.

Tuy nhiên, Luật Sở hữu trí tuệ chưa định lượng được mức sai số có trong các thông tin của chỉ dẫn làm nên sự nhầm lẫn [4]. Tức là một khi doanh nghiệp bắt chước toàn bộ các chỉ dẫn thương mại của doanh nghiệp khác, chúng ta sẽ dễ dàng xác định được là có sự nhầm lẫn. Một khi các chỉ dẫn thương mại không hoàn toàn giống, nghĩa là vẫn tồn tại một mức độ khác biệt nhất định, thì pháp luật phải xác định sự khác biệt đến mức độ nào có thể gây nhầm lẫn và có thể không tạo ra sự nhầm lẫn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

1.2. Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh

Trước thực trạng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra ngày càng đa dạng, phức tạp và tinh vi trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất, kinh

Cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu tại Việt Nam - 4

doanh; thì việc công nhận và thực thi quyền chống cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể bị xâm phạm lợi ích do các hành vi cạnh tranh không lành mạnh kể trên là rất cần thiết.

Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh là một nội dung cơ bản của quyền sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh cũng mang những đặc điểm riêng, khác biệt với các đối tượng còn lại của quyền sở hữu công nghiệp.

Thứ nhất, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh chỉ được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh [16]. Hay nói cách khác, quyền này chỉ được xác lập khi xuất hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một chủ thể sản xuất, kinh doanh nào đó trên thực tế. Và khi hành vi cạnh tranh không lành mạnh này làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm thì họ có quyền áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ mình.

Thứ hai, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh có thể cùng một lúc thuộc về nhiều người. Trong một lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong những lĩnh vực tạo ra nhiều lợi nhuận, việc có nhiều chủ thể cùng tham gia là điều không thể tránh khỏi. Do vậy, cùng một lúc một bên cạnh tranh có thể cạnh tranh với nhiều chủ thể khác nhau, dẫn đến cùng một lúc hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một chủ thể có thể làm ảnh hưởng đến nhiều chủ thể khác nhau và đương nhiên trong những trường hợp này, nhiều bên sẽ có quyền chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh đó. Do vậy, đây là điểm khác biệt của quyền chống cạnh tranh không lành mạnh so với các quyền khác.

Thứ ba, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh không những thuộc về các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường mà còn thuộc về người tiêu dùng. Trong khi các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chỉ làm ảnh hưởng đến lợi ích của chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp, thì đối với cạnh tranh không lành mạnh, bên cạnh chủ sở hữu, người tiêu dùng

cũng bị xâm phạm đến lợi ích, bởi họ là người trực tiếp tiêu dùng sản phẩm có biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh.

Thứ tư, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh không thể chuyển giao. Nếu như đối với các quyền sở hữu trí tuệ khác như quyền sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chủ sở hữu luôn có quyền thực hiện các hoạt động chuyển nhượng, mua bán, lixăng… thì đối với quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, chủ thể quyền không thể thực hiện các hoạt động chuyển giao do quyền chống cạnh tranh không lành mạnh không gắn trực tiếp với tài sản, không được coi là một tài sản, nên không thể chuyển giao.

2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến nhãn hiệu

Như khóa luận đã đề cập, hiện nay trên thị trường, xuất hiện ngày càng nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể làm ăn phi pháp, lợi dụng uy tín sẵn có của các nhãn hiệu đã được pháp luật công nhận và bảo hộ nhằm tạo ra lợi thế giả tạo, bất chính mà không phải đầu tư nhiều công sức. Điều này sẽ khiến người tiêu dùng lầm tưởng chất lượng của các sản phẩm kém chất lượng với các sản phẩm đã tạo được uy tín trước đó. Việc quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã xuất hiện từ rất sớm và hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đã ban hành các quy định điều chỉnh, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp nói chung và liên quan đến nhãn hiệu nói riêng trong pháp luật của quốc gia.

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được đề cập tới lần đầu tiên trong Công ước Paris năm 1883. Đây cũng được coi là công ước quốc tế đầu tiên và quan trọng nhất điều chỉnh hoạt động bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp. Ra đời từ năm 1883, Công ước Paris đã trải qua rất nhiều lần sửa đổi sau đó nhằm hoàn chỉnh các thiếu sót trong các quy định trước đó. Qua các lần sửa đổi này, các nguyên tắc, quy định về cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến lĩnh vực sở hữu

công nghiệp đã dần được bổ sung, các ví dụ cụ thể và điển hình về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng được đưa ra rất đầy đủ.

Theo văn bản mới nhất của Công ước Paris năm 1883, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp được quy định tại Điều 10bis. Theo đó, cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp nói chung bao gồm 3 hành vi: Hành vi gây ra sự nhầm lẫn, hành vi làm mất uy tín của đối thủ cạnh tranh và hành vi có thể lừa dối công chúng. Tuy nhiên, trong số 3 hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên chỉ có hai hành vi: gây ra sự nhầm lẫn và hành vi có thể lừa dối công chúng là có liên quan trực tiếp đến nhãn hiệu. Sau đây, khóa luận xin đi vào phân tích hai hành vi trên:

Thứ nhất, đó là những hành vi gây ra sự nhầm lẫn. Theo Điều 10bis(1) thì đó là “tất cả các hành động có thể gây nhầm lẫn dưới bất cứ hình thức nào đối với cơ sở, hàng hóa, hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh của người cạnh tranh” [21].

Như vậy, ta có thể hiểu bất kì một chủ thể nào đăng kí hay sử dụng nhãn hiệu, mà việc sử dụng đó có thể gây nhầm lẫn về cơ sở, hàng hóa, dịch vụ hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh của một chủ thể khác đang ở vị thế cạnh tranh với mình, đều sẽ bị coi là có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Như vậy, cần lưu ý một điều là, việc sử dụng một nhãn hiệu giống hệt hay tương tự trên những hàng hóa rõ ràng không liên quan hoặc hoàn toàn khác biệt sẽ không bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Bởi lẽ, sự khác biệt hoàn toàn giữa các hàng hóa sẽ làm cho người tiêu dùng nghĩ rằng chúng có nguồn gốc từ các nhà sản xuất, kinh doanh khác nhau.

Thuật ngữ “gây nhầm lẫn” ở đây có thể mang nghĩa tương tự với thuật ngữ không có “tính phân biệt” hay “tính độc đáo”của nhãn hiệu đã nhắc tới ở chương trước, khi mà một nhãn hiệu được đăng kí hay sử dụng không có chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch

vụ của chủ thể khác. Chính vì thế, người tiêu dùng không thể lựa chọn được mặt hàng mình mong muốn.

Ngoài việc sử dụng các nhãn hiệu thực sự gây nhầm lẫn, Điều 10bis còn buộc tất cả các nước thành viên ngăn chặn cả việc sử dụng nhãn hiệu có khả năng gây nhầm lẫn.

Cụ thê, các yếu tố sau thường được xét đến khi xác định xem một nhãn hiệu có gây nhầm lẫn hay không:

Mức độ độc đáo của nhãn hiệu được bảo hộ, hay đây chính là tính phân biệt của nhãn hiệu;

Quy mô và danh tiếng của chủ sở hữu nhãn hiệu đó;

Sự nhận biết của người tiêu dùng đối với nhãn hiệu;

Sự tương tự của nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ liên quan. Cơ sở để đánh giá sự tương tự của các dấu hiệu được dùng làm nhãn hiệu, với một số khác biệt nhỏ, là giống nhau trên toàn thế giới, bao gồm; các yếu tố chung về hình thức, phát âm và ý nghĩa hay việc dịch từng từ của nhãn hiệu liên quan.

Sự nhầm lẫn thường xảy ra dưới hình thức “chỉ dẫn xuất xứ thương mại”. “Xuất xứ thương mại” hay “nguồn gốc thương mại” ở đây được hiểu là nơi mà hàng hóa được sản xuất hoặc kinh doanh. Do đó, hình thức nhầm lẫn này xảy ra khi mà việc đăng kí hay sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của một chủ thể có thể làm cho người tiêu dùng lầm tưởng rằng những hàng hóa khác nhau có nguồn gốc từ cùng một nhà sản xuất, kinh doanh, thậm chí khi nguồn cơ sở kinh doanh này không được người tiêu dùng biết đến bằng tên của nó.

Hành vi gây nhầm lẫn nhằm mục đích cạnh tranh như trên có thể gây ra các hậu quả sau:

Đối với người tiêu dùng: gây thiệt hại về tài chính và sức khoẻ.

Đối với các đối thủ cạnh tranh: bị mất khách hàng, làm ảnh hưởng đến uy tín cũng như lợi nhuận.

Đối với môi trường kinh tế: làm hỗn loạn thị trường, gây thiệt hại lớn đến toàn bộ nền kinh tế và phúc lợi kinh tế.

Trên thực tế, việc đánh giá khả năng gây nhầm lẫn thường được xem xét trên cơ sở khảo sát thị trường. Ở một số nước trên thế giới, hành vi bị coi là gây nhầm lẫn, cạnh tranh không lành mạnh khi số liệu điều tra cho thấy khoảng 10% đến 15% người bình thường bị nhầm lẫn[14].

Thứ hai, đó là những hành vi có thể lừa dối công chúng. Cụ thể, “những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt động thương mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất, tính chất, tính thích hợp để sử dụng hoặc số lượng hàng hóa”[21].

Lừa dối có thể được định nghĩa là là việc tạo ra một ấn tượng sai về sản phẩm hoặc dịch vụ thuộc sở hữu của đối thủ cạnh tranh. Lừa dối là hình thức phổ biến nhất của cạnh tranh không lành mạnh, và lừa dối có thể đem lại những hậu quả rất to lớn cho nền kinh tế nói chung và người tiêu dùng cũng như doanh nghiệp nói riêng.

Hai hành vi cạnh tranh không lành mạnh nêu trên gần như tương tự với nhau và đôi khi là chồng chéo với nhau. Tuy nhiên, một điểm khác biệt lớn nhất và cơ bản nhất giữa hai hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên đó là: hành vi lừa dối trước tiên hướng tới người tiêu dùng chứ không trực tiếp hướng tới đối thủ cạnh tranh.

Hành vi lừa dối công chúng bao gồm:

Hành vi lừa dối “thông thường”;

Hành vi lừa dối đặc biệt, có thể dẫn tới những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ, như việc cố ý gây hiểu nhầm hoặc lừa dối công chúng trong lĩnh vực sức khỏe hoặc thuốc men.

Vì hành vi lừa dối công chúng trước tiên hướng tới người tiêu dùng nên tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, việc xác định xem liệu một hành vi có phải là lừa dối hay không chủ yếu căn cứ vào phản ứng của người tiêu dùng

chứ không dựa vào ý định của bên lừa dối. Ở một số quốc gia, những tiêu chuẩn xác định hành vi lừa dối được đặt ra dựa trên cơ sở quan điểm của người tiêu dùng trung bình, tức là những người tiêu dùng có được những thông tin đầy đủ và đủ thông minh để chống lại hầu hết những nguy cơ lừa dối.

Luật pháp Việt Nam cũng đã có những văn bản quy phạm pháp luật quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến lĩnh vực sở hữu công nghiệp nói chung. Nghị định 54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp, đã đưa ra những quy định khá chi tiết về vấn đề này. Sau đó, tới năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ ra đời, trên cơ sở kế thừa những quy định của nghị định 54, đã mở rộng thêm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trong lĩnh vực tên miền, một lĩnh vực đang được quan tâm trong xu thế hiện nay. Theo Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, các hành vi sau bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh:

a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ;

b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ;

c) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên, và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu[…];

d) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu[…]được bảo hộ của người khác[…] [16].

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/04/2022