Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - 4

trọng và phải đáp ứng những điều kiện ngặt nghèo trong đó chỉ có người chồng mới có quyền bỏ vợ và chỉ có thể bỏ vợ khi vợ phạm vào tội thất xuất (bảy lỗi của người vợ) như: không có con, dâm đãng, ghen tuông, trộm cắp, bất hòa, ác tật, không kính trọng bố mẹ chồng v.v

Về tài sản chung của vợ chồng, pháp luật thời kỳ này không cho phép các bên chủ thể thỏa thuận về tài sản chung nhưng cũng không có quy định cụ thể, riêng rẽ về vấn đề này do hôn nhân được coi là để duy trì dòng họ, nòi giống, người vợ sau khi kết hôn được coi là đã đi theo gia đình nhà chồng, kể cả khi chết, người vợ này cũng vẫn được coi là thuộc về dòng họ nhà chồng. Chính vì vậy, tài sản chung của hai vợ chồng hầu như không được đề cập tới mà chủ yếu chỉ là tài sản của cả gia đình, dòng họ.

1.3.2 Thời kỳ Pháp thuộc:


Thời kỳ này, thực dân Pháp chia cắt đất nước ta làm ba miền, mỗi miền áp dụng một bộ dân luật để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình. Ở Bắc kỳ là Bộ dân luật 1931 (được gọi là Bộ Dân luật Bắc kỳ), ở Trung Kỳ là Bộ dân luật 1936 (được gọi là Bộ Dân luật Trung kỳ) và ở Nam Kỳ là Dân luật giản yếu 1883 (được gọi là Bộ Dân luật giản yếu).

Tuy nhiên, nhìn chung quan điểm của xã hội về chức năng xã hội của gia đình vẫn không thay đổi chính vì vậy cả ba bộ dân luật vẫn duy trì chế độ đa thê (nhiều vợ) và việc kết hôn của nam và nữ, dù đã thành niên hay chưa thành niên vẫn phải được sự đồng ý của cha mẹ hay thân trưởng trong gia đình “Phàm con cái đã thành niên cũng như chưa thành niên, không khi nào không có cha mẹ bằng lòng mà kết hôn được” [7].

Tuy nhiên, do học tập một phần luật phương Tây, pháp luật thời kỳ này đã có những quy định cụ thể về tài sản chung của vợ chồng, trong đó thể hiện và phản ánh quan điểm của xã hội phương tây về quyền tự do tối cao của cá nhân. Theo đó, Bộ Dân luật Bắc kỳ và Trung kỳ đã cho phép vợ, chồng khi kết hôn được thỏa thuận về nội dung của các quan hệ tài sản giữa

họ trong thời kỳ hôn nhân và áp dụng nguyên tắc bất di, bất dịch của chế độ tài sản của vợ chồng theo hôn khế. Mặc dù vậy, đây chỉ là sự học tập trên lý thuyết chứ không phải là sự thay đổi xuất phát từ sự thay đổi của xã hội. Vì vậy, mặc dù pháp luật cho phép vợ, chồng được thỏa thuận về tài sản chung của vợ chồng trước khi kết hôn nhưng cũng quy định trong mọi trường hợp, các thỏa thuận đó không được đi ngược lại nguyên tắc chồng là người đứng đầu gia đình, là chủ khối tài sản của gia đình (Điều 104 Bộ Dân luật Bắc kỳ và Điều 102 Bộ Dân luật Trung Kỳ). Và hầu như quy định này cũng rất ít khi được áp dụng trong thực tế đời sống thời bấy giờ.

Sự song hành cùng tồn tại hai quan điểm về hôn nhân và quyền tự do cá nhân trong xã hội và trong tư tưởng các nhà làm luật, một lần nữa lại tiếp tục được khẳng định trong việc xác định tài sản chung của vợ chồng khi hai vợ chồng không thỏa thuận lập hôn khế, khi kết lập giá thú. Trong trường hợp này, Bộ Dân luật Bắc kỳ và Bộ Dân luật Trung kỳ, thể hiện quan điểm của xã hội nước ta thời bấy giờ đều dự liệu một chế độ tài sản pháp định, đó là chế độ cộng đồng toàn sản. Theo đó, mọi tài sản trong gia đình đều là tài sản chung và đều để dành cho các con cháu. “Nếu hai vợ chồng không có tư ước với nhau thì cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu lợi tức tài sản của chồng và của vợ hợp làm một mà chung nhau” (Điều 106, 107 Bộ Dân luật Bắc kỳ và Điều 105 Bộ Dân luật Trung kỳ). Tuy nhiên, ly hôn, với quan niệm mới được du nhập từ phương tây lại xác định: Khi hôn nhân chấm dứt thì các tài sản riêng của vợ, chồng đã được hợp nhất tạm thời vào khối tài sản chung của vợ chồng lại được tách ra để chia theo nguyên tắc tài sản riêng của bên nào thì bên đó có quyền lấy lại, còn đối với tài sản chung sẽ được chia đôi cho vợ và chồng (Điều 360 Bộ Dân luật Bắc Kỳ, Điều 369 Bộ dân luật Trung Kỳ). Các tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân được xác định bao gồm: Các tài sản do vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân; tài sản do vợ chồng làm việc mà kiếm ra; lợi tức của toàn bộ tài sản trong gia đình, không phân biệt lợi tức đó thu được từ

tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng (Điều 106, 107 Bộ Dân luật Bắc kỳ và Điều 104, 105 Bộ Dân luật Trung kỳ)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Như vậy, có thể thấy ở thời kỳ này, các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng phản ánh đúng thực chất xã hội nước ta lúc bấy giờ là sự đan xen giữa quan điểm truyền thống của xã hội về hôn nhân và quyền tự do cá nhân và quan điểm của phương Tây về các vấn đề này.

1.3.3 Thời kỳ 1945 đến nay:

Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - 4


Ngay sau Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, do điều kiện lịch sử xã hội, Nhà nước ta chưa thể ban hành ngay một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Vì vậy, Sắc lệnh số 90-SL của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được ban hành vào ngày 10/10/1945 đã cho phép vận dụng những quy định trong pháp luật cũ một cách có chọn lọc, theo nguyên tắc không được đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, của Nhà nước. Với quy định này, về đại thể, các quan hệ dân luật và HNGĐ từ năm 1945 – 1950 vẫn được điều chỉnh bởi ba văn bản luật (Bộ Dân luật Bắc kỳ, Bộ Dân luật Trung kỳ và Tập Dân luật giản yếu). Đến năm 1950, đáp ứng nhu cầu của đời sống, xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành các sắc lệnh đầu tiên về dân luật và hôn nhân gia đình. Đó là Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật (Sắc lệnh số 97-SL) và Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/1/1950 quy định về vấn đề ly hôn (Sắc lệnh số 159-SL)

Các văn bản này đã thể hiện sự thay đổi lớn trong quan điểm của xã hội về hôn nhân và quyền tự do cá nhân. Theo đó, quyền tự do cá nhân đã bắt đầu được xã hội thừa nhận, chú ý và được pháp luật công nhận, các chức năng xã hội của gia đình cũng bước đầu được ghi nhận. Chính vì vậy, các văn bản pháp luật trên đã có những quy định mới về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng như sau:

- Thứ nhất, công nhận quyền tự do cá nhân qua thừa nhận nguyên tắc tự do hôn nhân, tự do giá thú: Con đã thành niên lấy vợ, lấy chồng không

cần phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc các bậc tôn trưởng trong gia đình (Điều 2, Sắc lệnh số 97-SL);

- Thứ hai, công nhận quyền tự do cá nhân của người phụ nữ bình đẳng với nam giới qua việc thừa nhận quyền ly hôn của người vợ bình đẳng như người chồng. Theo đó cả vợ và chồng đều có quyền ly hôn nếu một bên ngoại tình hoặc can án phạt giam, mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa khỏi, một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng, vợ chồng tính tình không hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không thể sống chung được nữa (Điều 2, Sắc lệnh số 159-SL).

- Thứ ba, bảo vệ chức năng sinh sản, nuôi dưỡng con cái của gia đình với quy định: khi xin ly hôn, nếu người vợ đang có thai thì vợ hoặc chồng có thể xin tòa án hoãn đến sau kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn (Điều 5, Sắc lệnh số 159-SL).

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai nhiệm vụ cách mạng: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội và miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ, đấu tranh thống nhất đất nước.

Ở miền Bắc, đáp ứng tình hình xã hội, nhằm thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước ta đã ban hành Luật hôn nhân và gia đình đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: Luật Hôn nhân gia đình năm 1959.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đã thể hiện sự tiến bộ mới, bước ngoặt thay đổi trong quan điểm xã hội về quyền tự do cá nhân và hôn nhân. Từ đó, các căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng đã có những thay đổi nhất định theo hai hướng cơ bản là:

- Tiếp tục khẳng định và bảo vệ hơn nữa quyền tự do cá nhân của con người với các quy định:

+ Xóa bỏ hoàn toàn chế độ đa thê và hôn nhân cưỡng ép, hai đặc

trưng cơ bản nhất của chế độ hôn nhân lạc hậu. Khẳng định nguyên tắc hôn nhân tự do tiến bộ, hai bên tự quyết định việc xác lập quan hệ hôn nhân “Con trai và con gái đến tuổi được hoàn toàn tự nguyện quyết định việc kết hôn của mình; không bên nào được ép buộc bên nào, không ai được cưỡng ép hay cản trở” (Điều 4, Luật HNGĐ năm 1959)

+ Công nhận quyền tự do ly hôn của cả hai bên vợ và chồng, theo đó, ly hôn có thể do trường hợp cả hai bên cùng thuận tình xin ly hôn hoặc do một bên xin ly hôn.

- Thừa nhận và bảo vệ các chức năng xã hội của gia đình, với các quy định:

+ Quy định cụ thể các điều kiện kết hôn bao gồm: Độ tuổi kết hôn được quy định chính thức là nữ từ 18 tuổi trở lên, nam từ 20 tuổi trở lên mới được kết hôn; Cấm người có vợ, có chồng kết hôn với người khác; Cấm kết hôn giữa những người có cùng dòng máu trực hệ, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; Cấm kết hôn giữa anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Đối với những người khác có họ trong phạm vi năm đời hoặc có quan hệ thích thuộc về trực hệ thì việc kết hôn sẽ giải quyết theo phong tục tập quán; những người bất lực hoàn toàn về sinh lý, mắc một trong các bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc mà chưa chữa khỏi cũng không được kết hôn.

+ Tiếp tục hạn chế và mở rộng sự hạn chế quyền ly hôn của người chồng khi khi người vợ đang mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.

+ Quy định rõ chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản: toàn bộ tài sản của vợ, chồng có được trước hay sau hôn nhân đều thuộc tài sản chung của vợ chồng “vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” (Điều 15, Luật HNGĐ năm 1959).

Ở miền Nam, từ năm 1954 đến 1975, đế quốc Mỹ và chế độ nguỵ

quyền Sài Gòn đã ban hành một số văn bản pháp luật áp dụng trong các quan hệ hôn nhân và gia đình, đó là:

- Bộ Luật gia đình ngày 2/1/1959

- Sắc luật 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng

- Bộ dân luật ngày 20/12/1972 của chính quyền nguỵ Sài Gòn.

Ở các văn bản này, do xã hội vẫn chưa thực sự có bước chuyển mình hoàn toàn, vẫn duy trì sự đan xen và trộn lẫn giữa quan niệm truyền thống về quyền tự do cá nhân và hôn nhân với các quan niệm mới du nhập từ phương Tây. Tuy nhiên, khác với thời kỳ trước đây, các quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng đã thể đúng bản chất của xã hội lúc bấy giờ là sự đan xen, trộn lẫn và mang tính chuyển đổi của các quan niệm chứ không chỉ còn là sự học tập một cách lý thuyết trên các quy định của pháp luật.

Theo đó, pháp luật thời kỳ này, bên cạnh việc thừa nhận ý chí xác lập quan hệ hôn nhân, quan hệ sở hữu chung của vợ chồng của các bên chủ thể vẫn yêu cầu cần phải có sự đồng ý của hai bên gia đình. Điều 2, Bộ Luật gia đình khẳng định “Sự đính hôn chỉ có giá trị khi được làm một cách trọng thể với sự ưng thuận của hai bên đính hôn và sau khi nhà gái đã nhận lễ vật của nhà trai”. Điều 8 và 9 Bộ Luật Gia đình cũng thể hiện quan điểm tương tự với quy định “Sự ưng thuận của hai bên nam nữ là một điều kiện cốt yếu cho việc lập hôn thú” tuy nhiên “Con trai, con gái chưa đủ 21 tuổi không thể kết hôn nếu không có sự ưng thuận của cha mẹ” [15]

Pháp luật cũng tiếp tục thừa nhận quyền tự do cá nhân một cách máy móc với quy định về việc cho phép vợ chồng ký kết với nhau một hôn ước thỏa thuận về vấn đề tài sản từ trước khi kết hôn, miễn là sự thỏa thuận bằng hôn ước đó không trái với trật tự công cộng, thuần phong mỹ tục và quyền lợi của các con (Điều 45, Luật Gia đình, Điều 49 Sắc luật số 15/64 và Điều 144 Bộ Dân luật) đồng thời ghi nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng. Trong trường hợp vợ chồng không lập hôn ước với nhau về tài sản

thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc xác định các tài sản chung của vợ chồng lại được quy định khác nhau ở các văn bản. ở Luật Gia đình, các tài sản chung của vợ chồng bao gồm:

- Tất cả của cải, động sản và bất động sản thuộc quyền sở hữu của vợ hay chồng khi lập hôn thú.

- Các động sản và bất động sản của mỗi bên được hưởng do được thừa kế hoặc tặng cho (các tài sản này thuộc kỷ phần của vợ hay của chồng trong thời kỳ hôn nhân được nhập chung với tài sản của vợ chồng, trừ những tài sản do vợ hoặc chồng được thừa kế hay tặng cho mà người lập di chúc hay người tặng cho định khác)

- Các tài sản do hai vợ chồng có được hoặc do một bên vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân.

- Các hoa lợi thu được từ tài sản chung của vợ chồng hoặc thu được từ tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng.

Theo Sắc luật số 15/64 là chế độ cộng đồng động sản và tạo sản Theo Điều 54 Sắc luật số 15/64 và Điều 151 Bộ Dân luật 1972 thì khối tài sản chung của vợ chồng gồm có:

- Các động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng khi kết hôn

- Các động sản của vợ hay chồng được hưởng trong thời kỳ hôn nhân do được tặng cho, thừa kế

- Các động sản và bất động sản của vợ hay chồng có được trong thời kỳ hôn nhân

- Hoa lợi thu được của tất cả các loại tài sản mà vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân.

Điều này thể hiện sự biến đổi và lộn xộn của xã hội lúc bấy giờ.


Sau năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật áp dụng thống nhất trên toàn quốc. Xuất phát từ yêu cầu

đó, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 76/CP ngày 25/3/1977 quy định việc thi hành thống nhất Luật hôn nhân và gia đình trong phạm vi cả nước. Kể từ đó, Luật HNGĐ năm 1959 chính thức thay thế các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình của chế độ Sài gòn và được áp dụng tại miền Nam cho đến thời điểm đó.

Tuy nhiên, trước những thay đổi lớn lao của đất nước: quyền tự do cá nhân đã được khẳng định và được ghi nhận mở rộng hơn, quan niệm về một gia đình với sự kết hợp hoàn toàn của hai bên đã được thay đổi, cùng với nó là sự tích lũy, tạo lập nhiều tài sản lớn của hai bên vợ, chồng trước và sau hôn nhân, Luật HNGĐ năm 1959 đã bộc lộ những hạn chế nhất định, để khắc phục các điểm còn bất cập này, năm 1986, Nhà nước ta đã ban hành Luật hôn nhân và gia đình mới với quy định mới về việc xác định tài sản chung của vợ chồng. Nếu như trước đây Luật HNGĐ năm 1959 xác định tất cả các tài sản của vợ chồng có được trước hay sau hôn nhân đều thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng nhằm đảm bảo và khẳng định vai trò quan trọng của chức năng xã hội của gia đình thì đến nay mở rộng quyền tự do cá nhân và khẳng định hôn nhân không phải là sự kết hợp hoàn toàn của hai bên vợ chồng, đặt vai trò và chức năng xã hội của gia đình ngang hàng cùng với quyền tự do cá nhân, Luật HNGĐ năm 1986 đã thừa nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng và xác định chỉ các tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung mới là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa có các quy định về tài sản riêng của vợ, chồng mà chỉ khẳng định “Đối với những tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng” [20]

Đến năm 2000, nhằm phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội mới của đất nước thời kỳ đổi mới với sự ghi nhận và bảo đảm mở rộng hơn của

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/11/2023