Nội Dung Ảnh Hưởng Tam Giáo Trong Tư Tưởng Đạo Đức Người Cầm Quyền Của Lê Thánh Tông.

để thờ thân mẫu và truy phong danh hiệu là Quang Thục hoàng thái hậu, cũng cho dựng chùa Dục Khánh (chung đúc sự tốt lành) bên cạnh điện Huy Văn. Hoàng tử Lê Tư Thành ở trong Chùa thôn Huy Văn đến năm 4 tuổi, thì được Tuyên Từ hoàng Thái hậu - mẹ vua Lê Nhân Tông (1443- 1459) cho đón về cung hàng ngày học tập cùng vua Nhân Tông ở phủ Kinh Diên và được phong là Bình Nguyên Vương.

Như vậy: Bằng nhân cách, tài năng Lê Thánh Tông đã phát huy hết yếu tố chủ quan và cả khách quan đó là: Cơ sở kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng của thời đại mình để hình thành nên sự nghiệp cải cách sâu sắc toàn diện có lợi cho đất nước.

Hơn thế, tuy đạo đức Nho giáo thuộc phạm trù hình thái ý thức xã hội đã tác động tích cực đến tư tưởng cải cách của Lê Thánh Tông, chính điều kiện khách quan của lịch sử - xã hội Đại Việt đương thời, sự phát triển của yếu tố kinh tế, lực lượng sản xuất đã đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn cấp bách buộc cá nhân nhà vua phải trực tiếp giải quyết, và ông đã biết phát huy cao độ nhân tố chủ quan nhất là các phẩm chất đạo đức chịu ảnh hưởng Tam giáo, đặc biệt là Nho giáo.

Trước triều Lê sơ, triều Trần đã tổ chức bộ máy nhà nước theo mô hình "Tập quyền thân dân" [34, tr 64]. Thực chất đây là mô hình tổ chức nhà nước dựa trên quan hệ hòa đồng làng nước, trong đó chính quyền trung ương vừa là người cai trị vừa là kẻ đại diện cho làng xã. Cơ sở kinh tế - xã hội của cơ chế này chính là sự dung hòa lợi ích giữa 3 thực thể về sở hữu ruộng đất: Chính quyền trung ương - Tư nhân phong kiến - Làng xã.

Vì vậy, một mặt nhà nước ra sức bảo vệ quyền tối cao sở hữu của mình thông qua bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu của làng xã. Tất cả các ruộng đất công của làng xã cũ hay mới đều thuộc quyền quản lý gián tiếp của nhà nước trung ương. Nhà Trần còn thực hiện chế độ "Thái ấp" hay "Thực phong" với "Hình thức phổ biến là cấp cho một xã hay nhiều xã theo số hộ quy định để Quý tộc hay Quan lại hưởng tô thuế và đôi khi có ít quyền chi phối đối với cả

dân" [46, tr 19]. Nhưng bên cạnh đó, nhà Trần cũng phải có biện pháp, chính sách ủng hộ sự mở rộng của bộ phận ruộng đất tư hữu điền trang. Thái ấp thời Trần Thái Tông, nhà nước đã chính thức cho phép bán ruộng công làm ruộng tư, với quy định cụ thể về giá cả, thủ tục, thể thức mua bán. Cùng với chính sách khai hoang, nhà Trần đã tạo điều kiện cho chế độ tư hữu phát triển mạnh mẽ lấn át quyền lợi người dân nghèo.

Vì thế, đến cuối thế kỷ XIV, mâu thuẫn giữa ruộng đất Tư hữu và ruộng đất Công hữu bắt đầu diễn ra gay gắt, kéo theo nhiều biến đổi chính trị

- xã hội. Cơ sở tồn tại của Nhà nước tập quyền thân dân có nguy cơ bị phá vỡ. Sự phát triển của ruộng đất Tư tấn công mạnh mẽ vào ruộng đất thuộc sở hữu của Nhà nước. Hơn thế, nạn thiên tai, mất mùa liên tiếp xảy ra. Quý tộc, địa chủ nhân đó tăng cường chiếm đoạt, mua rẻ ruộng đất. Trong làng xã, xuất hiện nhiều bộ phận nắm ruộng đất với số lượng lớn, còn nông dân bán mình làm nô tỳ cũng ngày càng đông đảo. Diện tích ruộng đất công bị thu hẹp dẫn tới tô thuế của nhà nước giảm sút trông thấy. Quyền lực nhà Vua bị ảnh hưởng.

Mặt khác, chế độ điền trang tư nhân phát triển ngày càng mạnh mẽ làm gia tăng thế lực kinh tế của qúy tộc phong kiến, sở hữu phong kiến lớn ngày càng tăng. Hệ quả là thế lực của vương hầu, quý tộc ngày càng lớn. Bộ phận này muốn củng cố thế lực riêng nên có xu hướng tách khỏi sự chi phối của chính quyền trung ương. Khuynh hướng cát cứ, ly tâm chính trị xuất hiện đe dọa trực tiếp tới thể chế trung ương tập quyền. Trong khi đó, nông dân và nô tỳ liên tục nổi dậy đấu tranh chống quý tộc và triều đình trung ương khiến khủng hoảng xã hội càng trở nên rối ren, bất ổn.

Sự hòa đồng trong làng xã không còn, khoảng cách giữa quý tộc và dân chúng ngày càng xa. Khuynh hướng cát cứ gia tăng đã làm cho mối quan hệ tương tác giữa ba thực thể không còn hòa đồng như trước được nữa. Thiết chế chính trị quý tộc Phật giáo mà nhà Trần xây dựng vì thế trở lên lỗi thời, đòi hỏi phải có thiết chế mới tương ứng với sự phát triển của kinh tế. Hơn nữa,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

một thực tế lịch sử khác đòi hỏi phải cải cách mô hình tập quyền thân dân là vai trò ngày càng tăng của Nho sĩ trong xã hội nói chung và bộ máy chính quyền nói riêng.

Nhà nước Trần tổ chức theo hình thức phong kiến tông tộc tập quyền, quan lại chủ yếu xuất thân trong hàng ngũ con cháu nhà vua, quan lại, các nội giám. Nhưng đến nửa cuối thế kỷ XIV, lớp vương hầu, quý tộc tài năng, tâm huyết đã lãnh đạo cả dân tộc chống Mông - Nguyên thắng lợi không còn, thay vào đó là lớp quý tộc vương hầu chỉ biết hưởng đặc quyền, đặc lợi, cướp chiếm ruộng đất, bóc lột nông dân, vun vén thế lực riêng. Trong khi đó Nho học phát triển, giới Nho sĩ ra đời do sự phát triển của chế độ giáo dục khoa cử ngày càng gia tăng, một số người giữ chức trách quan trọng trong bộ máy chính quyền.

Ảnh hưởng Tam giáo trong tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông - 8

Nhưng trong lúc này quý tộc tôn thất vẫn nắm quyền thống trị cao nhất và được hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi nhất. Do vậy dù tầng lớp Nho sĩ có muốn cải cách thay đổi mô hình nhà nước sang quỹ đạo Nho giáo vẫn chưa đủ thế lực khả năng thực hiện. Đến khi Lê Lợi lên ngôi Vua những thực tế lịch sử trên cho thấy yêu cầu cải cách thể chế chính trị được đặt ra như một xu thế tất yếu khách quan. Thêm vào đó, cuộc cải cách Lê Thánh Tông đề xướng lại diễn ra trong điều kiện lịch sử hết sức thuận lợi.

Cuộc xâm lược và đô hộ của giặc Minh đã đẩy nước Đại Việt từ chỗ là một quốc gia độc lập có chủ quyền trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh của phương Bắc yêu cầu đẩy nhanh quá trình tập quyền càng bức bách hơn, Theo các nhà sử học trong "Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam" thì "ách thống trị của phong kiến nhà Minh là một trở lực nghiêm trọng trên con đường tiến hóa của xã hội Việt Nam. Vấn đề đó đề ra cho toàn thể các tầng lớp nhân dân Việt Nam yêu nước vào đầu thế kỷ XV một nhiệm vụ cấp thiết và sống còn là phải kiên cường đấu tranh thủ tiêu nền thống trị của nhà Minh, khôi phục lại nền độc lập vẻ vang của dân tộc" [39, tr 28]. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vẻ vang với vị minh chủ Lê Lợi đã giải quyết được nhiệm vụ lịch sử

trên đây, đồng thời tạo điều kiện mới tác động không nhỏ đến tư tưởng cải cách của Lê Thánh Tông.

Trước hết, đưa đất nước từ tình trạng phân tán dưới thời Trần đến chỗ tập trung hơn ở thời Lê. Dưới triều Lê, do quyền lực tập trung trong tay một ông Vua nên bộ máy nhà nước quản lý dễ dàng hơn, chính sách ban ra được thực hiện hiệu quả hơn, cộng thêm vào đó là sự đồng thuận, tinh thần đoàn kết giữa nhân dân và triều đình trở nên chặt chẽ hơn bao giờ hết. Rõ ràng, sự xác lập vương triều Lê từ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa nông dân đã là kết quả tạo ra một uy thế chính trị vô cùng to lớn cho Lê Thánh Tông, lợi ích của giai cấp thống trị, vương triều Lê lúc này thống nhất chặt chẽ, đại diện cho lợi ích của quốc gia, dân tộc. Tất nhiên, đến lượt mình, Lê Thánh Tông đã biết phát huy sử dụng kết quả lợi thế chính trị tinh thần ấy để thực hiện cải cách thành công, hiệu quả.

Toàn bộ điều kiện thuận lợi trên đây đã thúc đẩy Lê Thánh Tông nhanh chóng đi tới ý tưởng cải cách và bộ máy hành chính Nhà nước theo mô hình Nho giáo. Hơn thế, để cứu vãn vị thế Vương Triều đang bị lung lay bởi khủng hoảng nội tộc, cung đình thì Lê Thánh Tông không thể không thực hiện cải cách hướng theo mô hình Nho giáo và về sau bộc lộ sự bất cập.

Lê Thánh Tông sinh ra và được lập lên ngôi Vua ngay giữa thời kỳ biến loạn của cung đình xã hội, với mâu thuẫn và xung đột các nhóm quyền lực gay gắt. Sau khi Lê Lợi mất, Lê Thái Tông nối ngôi (1433 - 1442), phong tước kế vị cho con cả là Nghi Dân lúc Nghi Dân mới được 3 tháng tuổi. Nhưng chẳng bao lâu sau, Lê Thái Tông phế truất ngôi kế vị của con cả và đặt Bang Cơ - con thứ - lên địa vị thừa kế ngôi Vua. Nghi Dân và mẹ đều bị khép tội khi Quân, thiếu khiêm nhường. Họ bị giáng làm thứ dân và đều bị buộc rời khỏi cung cấm. Bản thân Lê Thái Tông không thể ngờ hành động trên đây của mình đã vô tình dẫn tới một âm mưu đảo chính chốn cung đình sau này. Lê Thái Tông đột ngột qua đời, Bang Cơ lên ngôi Vua, khi miệng còn hơi sữa, hệ quả kéo theo là sự kiện Nghi Dân - con cả Lê Thái Tông, năm 1459 đột nhập

hoàng thành giết em ruột là Bang Cơ (lúc này là vua Lê Nhân Tông) và Hoàng Thái Hậu, rồi tự xưng làm vua.

Nội tộc cung đình sinh biến, quyền thần ghen tị, vu cáo, sát hại lẫn nhau, nạn hà hiếp dân, ăn hối lộ diễn ra phổ biến trong hàng ngũ công thần, thực trạng rối ren, nhũng nhiễu của Đại Việt lúc này được khái quát sinh động trong lời bàn của Sử gia Phan Phù Tiên: "Nhân Tông mới lên hai tuổi đã sớm nối ngôi Vua, Thái hậu Nguyễn Thị là gà mái gáy sớm, Đô đốc Lê Khuyển như Thỏ khôn giữ mệnh. Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi chốn thâm khuê, bọn họ ngoại lòng tham, khoác lác hoành hành khắp cõi, kẻ thân yêu nắm quyền vị, nạn hối lộ được công khai, việc Văn giáo lặng lẽ như băng hàn, người hiền từ phải bó cánh, bậc Túc nho như Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì đẩy vào chỗ nhàn, phường dốt đặc ồn ào như ong đàn nổi dậy, như chó chuột nhe răng. Hiền tài là rường cột của triều đình mà sạch không như quét đất, Văn chương là khí vận của Nhà Nước thì im ắng tựa cỏ khô, bọn xiểm nịnh được tin dùng, kẻ đao bút được tiến cử [21, tr 605, 606].

Nội bộ triều Lê suy yếu là cơ hội tốt để các thế lực bên ngoài được dịp nổi lên. Năm 1435, xuất hiện cuộc mưu phản của Cầm Quý - Tù trưởng Châu Ngọc Ma; năm 1446, tù trưởng Hà Tông Lai ở huyện Thu Vật, Tuyên Quang làm phản, tình hình bên ngoài cũng trực tiếp đe dọa sự ổn định của nước Đại Việt. Từ phía Nam, dưới thời Lê Nhân Tông, Chiêm Thành đã tiến đánh cướp thành An Dung của Châu Hóa. Về phía Tây, bọn đạo Quỳnh từ Ai Lao đến xâm lấn đất đai vùng mường Mộc (tức Mộc Châu, Sơn La). Trong khi đó, ở phương Bắc, sau thất bại thảm hại của cuộc xâm lược vừa qua nhà Minh vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược phương Nam. Thời Lê Nhân Tông, chỉ một tin đồn tung ra, nhà Minh đã sai sứ sang hội khám biên giới.

Việc giải đáp hiệu quả những vấn đề trên đây không tách rời với việc lựa chọn mô hình xã hội cùng với phương thức quản lý nào để đưa xã hội Đại Việt thoát ra tình trạng rối loạn, khủng hoảng. Lên ngôi trong bối cảnh xã hội như

vậy, Lê Thánh Tông đứng trước một trọng trách to lớn mà lịch sử giao phó, nên ông đã lựa chọn Nho giáo để cai trị là điều tất yếu.‌

2.2. Nội dung ảnh hưởng Tam Giáo trong tư tưởng đạo đức người cầm quyền của Lê Thánh Tông.

2.2.1.Ảnh hưởng của Nho Giáo đến tư tưởng đạo đức của Lê Thánh

Tông

Như trên đã phân tích xu thế tất yếu ảnh hưởng đạo đức Nho giáo thời

Lê là tất yếu, Các vua Lê từ Lê Thái Tổ trở đi rất sùng đạo Nho, dùng đường lối này làm tư tưởng chính thống để cai trị quốc gia. Nguyễn Trãi là người xác lập đường lối dựa vào Nho giáo lấy đức trị, nhân trị để trị nước được Thái Tông, Nhân Tông hưởng ứng. Để tỏ sự tôn sùng Nho học, năm 1435 Lê Thái Tông sai Thiếu bảo Lê Quốc Hưng chọn ngày làm lễ cúng Khổng Tử ở Văn Miếu, khoa thi Tiến sĩ năm Nhâm Tuất (1442) được xem là mốc quan trọng xác lập vị trí độc tôn của Nho học ở Việt Nam.

Sang thời Lê Thánh Tông, để ổn định kỷ cương, phép nước, thâu tóm quyền lực Nho giáo đạt tới đỉnh cao thịnh vượng, dù vẫn để tâm tới Phật giáo và Đạo giáo nhưng tư tưởng đạo đức cai trị chủ đạo của Lê Thánh Tông là Nho giáo. Lê Thánh Tông đưa Nho giáo lên vị trí hàng đầu trong đời sống văn hóa đạo đức của thời đại này. Để đời sống tư tưởng đạo đức của xã hội quy về với Nho giáo, ông đã tìm mọi cách "làm sáng tỏ đạo thánh hiền" khiến muôn người tin theo[3].

Trước hết giáo dục và thi cử nội dung đạo đức Nho giáo chiếm nội dung chủ yếu. Để tôn vinh Nho học, Lê Thánh Tông cho dựng bia Tiến Sĩ, những người đỗ từ năm 1442 tại nhà Thái học và tôn vinh sử dụng đức tài của họ.

Nội dung thi cử Nho giáo thời Lê Sơ cơ bản áp dụng chủ yếu theo nhà Tống, còn gọi là Tống Nho. Nhưng từ năm 1467, ông đặt ra chức Ngũ kinh bác sĩ, tức là chọn người giỏi kinh điển Nho học giao cho nhiệm vụ nghiên cứu chuyên sâu về Ngũ kinh để giảng cho học trò thúc đẩy truyền bá Nho

giáo trong xã hội. Bản thân Thánh Tông cũng có học vấn khá cao về Nho học, ông thường cùng các quan lại bàn về các phạm trù cơ bản như đạo, lý Nho giáo trong lúc rỗi rãi. Ông đề cao phẩm hạnh giữ mới "tam cương": quân thần, phụ tử, phu phụ (vua tôi, cha con, vợ chồng) chữ “Trung” và chữ "hiếu".

Ngoài yếu tố giao lưu văn hóa, trong lịch sử trước đây, Nho giáo thâm nhập vào dân tộc Việt Nam chủ yếu thông qua diễn trình xâm lược, đô hộ của quân xâm lược phong kiến Trung Quốc (bắt đầu từ năm 179 trước công nguyên và kéo dài đến năm 905 sau công nguyên), không chỉ âm mưu biến Đại Việt trở thành một quận huyện của Trung Quốc, chúng còn muốn đồng hóa, nô dịch nhân dân ta về mặt văn hóa thông qua công cụ chủ yếu là Nho giáo với tư tưỏng Tam cương, Ngũ thường, Thiên mệnh hết sức khắc nghiệt. Trước tình thế đó, các triều đại phong kiến Việt Nam, đặc biệt là thời Lý - Trần đã sử dụng ưu thế của Phật giáo làm phương thức thể hiện tinh thần tự cường, độc lập tự chủ của đất nước. Tư tưởng Phật giáo tại Việt Nam với tinh thần phá chấp sau khi đã bản địa hóa, kết hợp cả Nho giáo với những yếu tố dân tộc, đã thực sự trở thành bức tường thành kiên cố chặn đứng mọi sự tấn công, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc để lại hào quang về sau. Tuy nhiên, sau thời kỳ đất nước rối loạn, ở giai đoạn Lê Thánh Tông các yêu cầu thực tiễn đặt ra việc lựa chọn và sử dụng mô hình xã hội có đạo đức theo Nho giáo hoàn toàn không phải sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc mà để tự cường. Trong thời kỳ thuộc Minh, cùng với Đạo giáo, Phật giáo đã bị giai cấp phong kiến phương Bắc lợi dụng với âm mưu thống trị đời sống tinh thần nhân dân, hạn chế ý chí đấu tranh tự cường của dân tộc. Mặt khác, thời kỳ chiến tranh loạn lạc kéo dài từ cuối thế kỷ XIV sang đầu thế kỷ XV cũng gián tiếp gây ra hiệu ứng tâm lý bất an trong xã hội. Do vậy, lịch sử đặt ra cho nhà nước phong kiến trong thời kỳ LêThánh Tông trong xu thế đang phát triển của nó yêu cầu hạn chế bớt những hình thức sa sút bởi mê tín dị đoan, tệ lậu của Phật giáo, Đạo giáo ảnh hưởng tới sức sản xuất, và phần nào làm dao động nhân tâm. Nhiệm vụ trên đây đã được Lê Thánh Tông nhận thức sâu sắc, và tư

tưởng cải cách hướng theo nho của ông chính là lời giải đáp cho những thách thức lớn của thời đại. Vận dụng tư tưởng đạo đức chính trị Nho giáo của phong kiến Trung Quốc đã được ông sử dụng để tái thiết xã hội Đại Việt, hướng tới sự phát triển rực rỡ, toàn trị.

Có thể nói, tư tưởng cải cách về đạo đức chính trị hướng theo Nho giáo đặt ở thời đại ấy của Lê Thánh Tông vẫn là sự kế tục truyền thống yêu nước, tinh thần độc lập tự chủ, tự cường của dân tộc. Có thể xem ý tưởng xây dựng một xã hội Nho giáo theo khuôn mẫu Đường Nghiêu, Ngu Thuấn là sự hiện thực hóa nguyện vọng thiết lập ổn định xã hội, giải phóng sức sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân và nâng cao vị thế Đại Việt của Lê Thánh Tông.

Không những thế, bản thân Lê Thánh Tông còn được biết đến với tư cách là một nhà Nho có tinh thần dân tộc, có lý tưởng, trước khi làm vua, Lê Thánh Tông đã là một trí thức Nho học uyên bác, tinh thông tất cả đạo lý thánh hiền rất gần gũi dân chúng. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Ngọc trong "Lê Thánh Tông và sự toàn vẹn của quốc gia Đại Việt" thì: "Ông là sản phẩm của thời đại mà Nho giáo đã ăn sâu bám rễ và phát huy ảnh hưởng của nó trong xã hội Đại Việt. Nhưng ông còn nhận đinh “Tư tưởng Nho giáo và chế độ chuyên chế vừa là bệ đỡ, vừa là vật cản tầm nhìn cách nghĩ của Lê Thánh Tông” [19, tr 7]. Vì thế, mô hình cải cách do Lê Thánh Tông đưa ra không thể không chịu sự chi phối của hệ tư tưởng đạo đức Nho giáo cả 2 mặt được và chưa được. Học giả John Kremers Whitmore đã cho rằng: Lê Thánh Tông "cảm thấy sứ mệnh của mình là tái thiết toàn quốc Việt Nam trong hình ảnh của Nho giáo" [17, tr 152].

Và để đạt được điều đó, điều trước hết là ông đã nỗ lực không ngừng để tu dưỡng xây dựng mình - người đứng đầu quốc gia - như hình tượng tiêu biểu cho một Minh Quân ông vua Thánh nhân của Nho giáo, vươn tới mẫu mực đạo làm Vua Thánh nhân.

Xuất phát từ thực tại xã hội hết sức rối loạn vào thời cuối Trần, Lê Thánh Tông nhận thấy chỉ có Nho giáo mới là học thuyết đạo đức chính trị -

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 18/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí