Thực Trạng Yếu Tố Vĩ Mô Tác Động Đến Tỷ Suất Sinh Lợi Của Các Ngân Hàng Tmcp Tại Việt Nam


dụng bán nợ xấu, bên cạnh trái phiếu đặc biệt với cơ chế đã có. Cơ chế mới gắn kèm với nhiều lợi ích như trái phiếu VAMC phát hành dùng để thanh toán cho tổ chức tín dụng bán lại nợ xấu; các TCTD sở hữu trái phiếu mới này thì không phải trích lập dự phòng rủi ro như Trái phiếu đặc biệt; TCTD sở hữu trái phiếu như một tài sản có tính thanh khoản cao, bởi có thể chuyển nhượng giữa TCTD với NHNN, và giữa các TCTD với nhau.

Như vậy có thể thấy khi tăng trưởng tín dụng ở mức thấp trong khi chi phí dự phòng RRTD tiếp tục tăng sẽ gây khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng. Dẫu vậy, đây là thời kỳ mà các ngân hàng buộc phải quay về giá trị thực của mình đồng thời phải tăng cường trích lập dự phòng để ứng phó kịp thời khi biến cố xảy ra chứ không phải là sự đánh bóng với những con số lợi nhuận không phản ánh đúng tình trạng sức khỏe của mình. Không những thế, nếu không quá chạy đua theo chỉ tiêu bằng mọi giá mà tập trung vào mục tiêu tăng trưởng và nâng cao hiệu quả hoạt động thì sẽ đạt được mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài.

100

90

80

70

60

50

40

30

20

10

0

2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016

3.2.3. Chi phí hoạt động của ngân hàng








8

9.8%










80.74%



71.08%













68.63%



69.54%



56.87%

51.44%










51.18%









































Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam - 6


Đồ thị 3.3: Chi phí hoạt động trên tổng thu nhập hoạt động của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam giai đoạn 2008-2015

Mỗi hoạt động kinh doanh đều mang đến cho ngân hàng những khoản thu nhập nhất định và đồng thời cũng tạo ra những khoản chi phí mà ngân hàng phải quản lý tốt nhằm tăng hiệu quả hoạt động. Trên thực tế, thu nhập trên chi phí hoạt động trung bình có sự tăng giảm biến động qua từng năm nhưng từ năm 2008 đến nay, chi phí hoạt động của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam đều chiếm hơn 50% tổng thu nhập hoạt động, điều này về lâu dài nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận cũng như TSSL của ngân hàng. Theo khảo sát về ngành ngân hàng Việt Nam năm 2013 của KPMG, chi phí lương và các


chi phí liên quan đến nhân viên là cấu phần lớn nhất, chiếm hơn 50% tổng chi phí hoạt động, mặt khác các ngân hàng không ngừng tuyển dụng mới do đang chịu áp lực mở rộng phạm vi hoạt động khi nền kinh tế dần hồi phục cộng với sức ép tăng thị phần từ các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đang rất gắt gao nên để tăng khả năng cạnh tranh, các ngân hàng nội địa buộc phải tìm cách tăng số lượng chi nhánh, phòng giao dịch, dẫn đến tăng số nhân viên. Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2016 số lượng nhân sự của các ngân hàng đã tăng lên đáng kể như VPBank đã tuyển dụng thêm gần 2.100 người mặc dù năm ngoái nhân sự cũng đã tăng vọt do mua lại Công ty tài chính Than – Khoán sản Việt Nam (CFM); Vietinbank và MBBank cũng tuyển mới trên 1.000 nhân sự trong 2 quý đầu năm trong khi đó, Vietcombank liên tục đăng tin tuyển dụng tập trung lên tới hàng nghìn chỉ tiêu song tại ngày 30/6/2016, Vietcombank mới chỉ tuyển thêm được 175 nhân sự so với thời điểm đầu năm; BIDV đang là ngân hàng thương mại cổ phần có số nhân viên cao nhất với gần 24 nghìn người, theo sau sát nút là Vietinbank và ở vị trí thứ ba Sacombank….Điều này đã đi ngược lại với xu hướng chung của thế giới và các ngân hàng cần tìm biện pháp để cắt giảm chi phí này đồng thời tăng năng suất cũng như hiệu quả làm việc của nhân viên. Trên thực tế, các ngân hàng của thế giới đang tập trung phát triển sản phẩm dịch vụ kết hợp với kỹ thuật như Internet Banking, Mobile Banking và những sản phẩm không đòi hỏi sự phát triển về mạng lưới chi nhánh vì nó cho phép ngân hàng tiếp cận nhanh với các phương pháp quản lý hiện đại giúp ngân hàng đa dạng hoá sản phẩm, tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả hoạt động và đặc biệt là nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế hội nhập.

3.2.4. Khả năng thanh khoản của ngân hàng


Năm 2008 là năm vô cùng khó khăn về thanh khoản của các ngân hàng do NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát và lãi suất huy động có lúc đã được đẩy lên đến 19%/năm. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu, siêu lạm phát ở Việt Nam và tác động của chính sách tiền tệ quốc gia khiến NHNN phải thực hiện hàng loạt biện pháp mạnh như nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 11%, thay đổi cơ chế điều hành và tăng lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn… Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ theo lối thắt chặt đã gây ra sự thiếu hụt trầm trọng thanh khoản của các NHTM và dẫn đến cuộc chạy đua lãi suất huy động của ngân hàng. Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành Công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 khống chế trần lãi suất huy động là 12%/năm. Mặt khác, cuộc chạy đua lãi suất không có


điểm dừng không thể chỉ do chính sách thắt chặt tiền tệ mà còn do vấn đề quản trị rủi ro kinh doanh nói chung cũng như quản trị rủi ro thanh khoản nói riêng chưa được coi trọng. Dù có nhiều diễn biến phức tạp trong năm nhưng đến thời điểm cuối năm khả năng thanh khoản của các NHTM cũng ở mức ổn định đạt 26,37%.

Năm 2009 tốc độ tăng vốn huy động của toàn ngành thấp hơn tốc độ tăng dư nợ, tiền gửi tiết kiệm không còn tính ổn định như những năm trước, kỳ vọng lãi suất cơ bản tăng cộng lo ngại lạm phát cao và chờ đợi những cơ hội đầu tư khác khiến người gửi chỉ chọn kỳ hạn ngắn. Những yếu tố trên khiến các NHTM luôn ở trong tình trạng căng thẳng về nguồn vốn. Với lãi suất đầu vào như vậy nên lãi suất đầu ra của ngân hàng cũng khá cao. Ngoài ra một số ngân hàng nhỏ cũng đã có lúc phải trả lãi suất rất cao khi vay tiền các ngân hàng lớn trên thị trường liên ngân hàng. Do đó NHNN đã có kế hoạch hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD thông qua nghiệp vụ thị trường mở với 2 phiên giao dịch/ngày bắt đầu từ ngày 23.12.2009 đồng thời chỉ đạo các NHTM sử dụng vốn liên ngân hàng để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc và đảm bảo thanh khoản. Nhờ vào những chính sách hỗ trợ của NHNN mà khả năng thanh khoản của các NHTM tăng đạt 27,78% năm 2009.

Sự hỗ trợ vốn của ngân hàng rất cần thiết để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng do Chính phủ đề ra. Tuy nhiên những biến động trong năm 2010 như dự trữ ngoại hối còn ít, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng giảm đã tác động lên lãi suất đồng VND làm ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các NHTM. Theo đó các ngân hàng đã chạy đua lãi suất huy động có khi cao đến 19%/năm buộc NHNN phải can thiệp yêu cầu mức trần lãi suất là 14%/năm. Nguồn vốn huy động năm 2009 đã khá thấp thì đến năm 2010 lại càng giảm rõ rệt khi dân chúng đầu tư sang những kênh khác như đổ xô đi mua vàng và ngoại tệ. Chính vì thế, tình hình thanh khoản của các ngân hàng năm 2010 gỉam còn 24,56%.


30

27.78%

25

26.37%

24.56%

23.15%

20

21.9%

19.24%

18.27%

15

14.31%

10


5


0

2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016

Đồ thị 3.4: Tài sản có tính thanh khoản trên tổng tài sản bình quân của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam giai đoạn 2008-2015

Bước sang năm 2011, tình hình thiếu vốn huy động vẫn đang trở thành bài tóan đáng lo ngại với các NHTM khi lãi suất huy động lên đến 18%/năm, thậm chí có ngân hàng phải trả lãi suất tới 23%/năm cho những khoản tiền gửi ngắn hạn mặc dù trần lãi suất được quy định là 14%. Hoạt động vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng diễn ra mạnh mẽ, nhiều ngân hàng đã phải mang vàng ra cầm cố và bán cả ngoại tệ vừa huy động được để lấy tiền đồng cứu thanh khoản. Cụ thể, khả năng thanh khoản của các NHTM giảm còn 23,15% năm 2011 và 21,90% năm 2012. Sự thiếu hụt thanh khoản trầm trọng này bắt nguồn từ những khoản đầu tư ủy thác, vốn tài trợ, cho vay lẫn nhau, gây ra dòng tiền chằng chịt giữa các ngân hàng. Tình trạng mất thanh khoản vào cuối năm 2011 còn do những ngân hàng nhỏ sử dụng quá nhiều vốn trên thị trường liên ngân hàng để cho vay, trong khi các ngân hàng lớn cũng không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh vốn của mình. Tình hình trên chỉ thực sự nguội lạnh khi thông tư 21/2012/TT-NHNN ra đời quy định các TCTD chỉ có thể vay trên thị trường này nếu như họ không có khoản vay liên ngân hàng nào quá hạn trên 10 ngày do khoản vay trên thị trường liên ngân hàng được coi là kém ổn định hơn so với các khoản tiền gửi dài hạn của khách hàng. Nhiều khoản vay liên ngân hàng kỳ hạn trên 6 tháng sử dụng vàng, ngoại tệ ra làm tài sản đảm bảo bắt đầu giảm trong các giao dịch theo từng ngày.

Từ năm 2013 trở đi, tình hình thanh khoản tuy không biến động quá lớn nhưng vẫn giảm qua các năm. Theo đề án tái cơ cấu hệ thống, yêu cầu đặt ra là đến năm 2015 khối ngân hàng thương mại phải giảm được tỷ lệ dư nợ tín dụng so với vốn huy động về mức không quá 90% và nhiều khả năng chỉ tiêu này sẽ không đạt được. Mặt khác, các NHTM dường như


đang mạo hiểm hơn với vấn đề thanh khoản khi đẩy mạnh sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Trước tình hình đó, thông tư 36 có hiệu lực từ tháng 2/2015 ra đời giới hạn về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn từ 30% lên tới 60%. Như vậy, ngoài nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và xây dựng môi trường phát triển bền vững, vấn đề thanh khoản luôn là mối quan tâm không thể thiếu của các NHTM cũng như Chính phủ và NHNN. Do đó, các ngân hàng nên bám sát mục tiêu cũng như chỉ đạo của NHNN trong từng thời kỳ nhằm định hướng hoạt động và thực hiện tốt công tác quản trị rủi ro thanh khoản.

3.3. Thực trạng yếu tố vĩ mô tác động đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam

Dưới tác động của khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, tỷ lệ lạm phát năm 2008 đã vượt ngưỡng tăng cao đạt 23,1%. Nguyên nhân là do sự biến động giá cả trên thị trường thế giới tác động đến giá cả trong nước đặc biệt là các mặt hàng dầu mỏ, lương thực, thực phẩm, các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp và sự tăng giá các mặt hàng trong nước đã góp phần làm lạm phát bùng phát. Thứ hai là do cung tiền tăng quá mức tức nguồn vốn nước ngoài đổ vào một cách ào ạt kể từ khi Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO vào tháng 11/2007 nhưng do sự thiếu hiệu quả trong đầu tư, chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN trở nên bất ổn, thị trường chứng khoán diễn biến phức tạp khiến các nhà đầu tư tìm kiếm những cơ hội khác và dần rút vốn về nước.

Trước tình hình đó, gói kích cầu kinh tế thứ nhất của Chính phủ trong năm 2009 đã có hiệu quả tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng với chi phí rẻ nhằm tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa trên thị trường đồng thời góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Chính sách đã được thực hiện khá thành công khi đạt được mức tăng trưởng tương đối cao so với các nước trong khu vực mà vẫn giữ được lạm phát ở mức thấp đạt 7,05%. Tuy nhiên, chính các biện pháp nới lỏng đó đã dẫn đến hiện tượng lạm phát cao trong năm 2010-2011 cũng như hiện tượng bong bóng chứng khoán và bất động sản. Cụ thể, lạm phát năm 2010 đã tăng lên mức 8,86% do việc kìm chế lạm phát ở mức một con số vào năm 2009 cho thấy nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi, hoạt động sản xuất cũng như nhu cầu tiêu dùng tăng trở lại làm giá cả cũng tăng theo. Bên cạnh đó, cán cân thương mại của nước ta đã bị thâm hụt kéo dài và có dấu hiệu phục hồi nhưng sự nới lỏng chính sách tiền tệ và


25


20


15


10


5


0

2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016

chính sách tài khóa theo chương trình kích cầu kinh tế đã làm gia tăng nhập khẩu gây thâm hụt cán cân thương mại, điều này cho thấy nền kinh tế vẫn còn tiềm ẩn những khó khăn nội tại nhất định.




23.1%













18.7%

















7.05%

8.86%


9.09%


6.59%










4.09%


0.63%


Đồ thị 3.5: Tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2008-2015

Trước tình hình lạm phát tăng vọt, đầu tư công tràn lan kém hiệu quả và các đầu tàu của nền kinh tế đầu tư ồ ạt ra ngoài ngành, ngày 24/02/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Mặc dù lạm phát cuối năm 2011 vẫn cán mốc 2 con số đạt 18,7% nhưng nhờ sự triển khai đồng bộ các giải pháp, kinh tế vĩ mô đã có chuyển biến khả quan hơn cũng như định hướng tái cấu trúc nền kinh tế, thoái vốn ngoài ngành và tăng hiệu quả đầu tư công. Từ năm 2012 đến năm 2014, nền kinh tế thế giới đã từng bước có những dấu hiệu hồi phục mang tính tích cực nên kinh tế vĩ mô trong nước cũng đạt được những kết quả ban đầu đáng khích lệ khi tỷ lệ lạm phát giảm dần từ 9,09% (năm 2012) xuống 6,59% (năm 2013) và 4,09% (năm 2014). Điều này có được là do chính phủ đã thực hiện nhất quán và kiên trì chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo việc thực hiện được kiểm soát một cách chặt chẽ. Ngoài ra, công tác quản lý, điều hành giá rất được chú trọng thể hiện bằng việc Chính phủ đã đề ra các giải pháp thường kỳ hàng tháng về triển khai công tác quản lý, góp phần bình ổn giá cả thị trường. Như vậy, chúng ta đã bước đầu kiểm soát được lạm phát 3 năm liền, không lặp lại vòng luẩn quẩn là 2 năm tăng, một năm giảm như giai đoạn 2007-2012. Tuy nhiên việc kiềm chế lạm phát do thắt chặt chính sách tiền tệ cũng gây ra nhiều hệ lụy như dẫn đến việc tăng trưởng kinh tế dưới tiềm năng mà hậu quả của nó là trong tương lai có thể gây mất cân đối cung - cầu hàng hóa và tạo ra lạm


phát do thiếu cung. Ngoài ra, nếu để tình trạng lạm phát đang trong xu hướng giảm sẽ kéo theo sức mua ì ạch, hoạt động kinh tế cũng ngưng trệ theo, người tiêu dùng tạm hoãn chi tiêu để chờ giá giảm sâu hơn…Vì vậy, lạm phát nên được kiềm chế ở mức hợp lý chắc chắn sẽ có lợi hơn cho tăng trưởng và ngược lại nếu lạm phát quá cao hoặc quá thấp sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho nền kinh tế.

Điểm đáng chú ý là bước sang năm 2015, tỷ lệ lạm phát đạt 0,63% - mức tăng tương đối thấp so với 14 năm trở lại đây. Trên cơ sở Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 3/1/2015 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 của Chính phủ, năm 2015 còn là năm cuối thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2011-2015 nên các ngành, các cấp đã tích cực triển khai thực hiện các giải pháp nhằm giữ ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Bên cạnh đó, tỷ lệ lạm phát thấp còn do yếu tố tâm lý, chi tiêu của người dân được tính toán kỹ và cân nhắc hơn.

3.4. Thực trạng tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam


Bảng 3.4: Tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam giai đọan 2008-2015

Năm

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

ROA trung bình (%)

1,01

1,30

1,28

1,22

0,89

0,61

0,58

0,49

ROE trung bình (%)

9,59

13,97

13,47

12,77

8,39

6,36

6,23

6,17

(Nguồn: Báo cáo tài chính của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam)


Năm 2008 được coi là năm đầy sóng gió đối với ngành ngân hàng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cộng với thị trường chứng khoán sụt giảm. Trước tình hình đó, trong năm 2009 NHNN đã thực hiện việc nới lỏng chính sách tiền tệ nhất là thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Không chỉ dừng lại ở đó, việc tăng trưởng tín dụng còn kéo theo nguồn thu từ những sản phẩm, dịch vụ đi kèm như dịch vụ thanh toán, chuyển tiền…góp phần làm cho ROA và ROE trung bình tăng lần lượt đạt 1,3% và 13,97%. Trong đó, Techcombank là ngân hàng đạt tỷ số ROA cao nhất 1,84% và ROE cao nhất thuộc về VCB với tỷ lệ là 23,45%


Năm 2010 kế hoạch tăng vốn của các ngân hàng trở nên sôi nổi hơn bởi theo quy định tại Nghị định 141/2006/NĐ - CP ngày 22/11/2006, các ngân hàng TMCP phải đảm bảo số vốn điều lệ tối thiểu là 3.000 tỷ đồng. Trước áp lực tăng vốn nhanh chóng khiến các ngân hàng chưa có kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả và tồn đọng nhiều lượng vốn không sinh lợi. Bên cạnh đó, tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm do nền kinh tế chưa thực sự hồi phục, giá nguyên liệu đầu vào tăng liên tục, thị trường chứng khoán sụt giảm, lãi suất cho vay cao khiến các doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng. Tất cả đã làm ROA giảm còn 1,28% và ROE giảm còn 13,47%, trong đó SaiGonbank là ngân hàng đạt tỷ số ROA và ROE cao nhất lần lượt là 4,73% và 22,55%. Năm 2011 tiếp tục là một năm khó khăn với ngành ngân hàng với những diễn biến kinh tế vĩ mô phức tạp. Hệ thống ngân hàng bắt đầu thu hẹp quy mô cùng với những thương vụ mua bán, sáp nhập của quá trình tái cơ cấu khiến tốc độ tăng trưởng tín dụng giảm, bên cạnh đó tình hình thiếu vốn huy động vẫn đang trở thành bài tóan đáng lo ngại với các NHTM khi lãi suất huy động lên đến 18%/năm, thậm chí có ngân hàng phải trả lãi suất tới 23%/năm cho những khoản tiền gửi ngắn hạn và chi phí dự phòng RRTD tăng làm tỷ số ROA giảm còn 1,22% và ROE giảm còn 12,77%.

Trong giai đoạn 2012-2014, do chịu ảnh hưởng từ khó khăn kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng phải đối mặt với tình trạng chất lượng tín dụng đi xuống, hậu quả của tăng trưởng tín dụng nóng những năm trước đó. Bên cạnh đó, lợi nhuận của một số ngân hàng sụt giảm cùng sự tăng lên của chi phí dự phòng rủi ro tín dụng đã khiến cho các chỉ tiêu sinh lời ROA, ROE trong 3 năm gần đây có xu hướng giảm. Trong đó năm 2012 ROA giảm mạnh còn 0,89% và ROE giảm còn 8,39%, nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn do khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, hàng tồn kho cao đồng thời các ngân hàng phải kiểm soát chặt chẽ tín dụng nhằm ngăn chặn nợ xấu xảy ra. Năm 2013 là năm khởi sắc hơn về tăng trưởng tín dụng do NHNN đã có nhiều biện pháp hỗ trợ nguồn vốn cho các tổ chức tín dụng vay với lãi suất hợp lý nhằm đẩy mạnh tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên tuy nhiên đây cũng là thời điểm nợ xấu tăng mạnh tới 23,73% so với năm 2012 và thật sự trở thành mối đe dọa đến an ninh hệ thống ngân hàng, ổn định tài chính quốc gia. Điều đó làm chi phí trích lập dự phòng tăng dẫn đến giảm lợi nhuận và tỷ số ROA và ROE giảm lần lượt còn 0,61% và 6,36%. Bước sang năm 2014, ngân hàng tích cực

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 09/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí