Khái Niệm, Bản Chất Và Phân Loại Về Tuân Thủ Thuế


cải thiện sự tuân thủ của người nộp thuế (Alm và cộng sự, 2016) Tuy nhiên, nếu việc kiểm tra, thanh tra thuế được thực hiện thường xuyên mà không phát hiện ra được những sai phạm, cũng như xử phạt không đủ sức răn đe có thể dẫn đến nhận thức về quyền lực của cơ quan thuế thấp ở người nộp thuế (Muehlbacher, Kirchler và Scharzenberger, 2011) và trong một xã hội mà trốn thuế, tránh thuế trở thành hành vi bình thường và được xã hội chấp nhận có thể dẫn đến giảm hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế (Wenzel 2005). Khi đó, sức mạnh quyền lực của cơ quan thuế sẽ có tác động mạnh đến hành vi tuân thủ thuế bắt buộc của NNT (Kirchler và cộng sự, 2008). Điều đó, đặt ra một câu hỏi phải chăng chính nhận thức về quyền lực của cơ quan thuế (nhận thức của người nộp thuế về năng lực của cơ quan thuế trong việc phát hiện và trừng phạt tội phạm về thuế) không cao ở người nộp thuế dẫn đến hành vi tuân thủ thuế không cao dù gia tăng các cuộc kiểm tra, thanh tra thuế? Câu hỏi này hiện chưa có câu trả lời và đây là khoảng trống trong nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế.

1.5.3. Hướng nghiên cứu của luận án

Dựa trên mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và kết quả tổng quan nghiên cứu, khoảng trống nghiên cứu, luận án hướng đến thực hiện: Với lý thuyết hành vi có kế hoạch (Ajzen, 1991) có mở rộng thêm một số yếu tố và kết hợp với mô hình SSF về tuân thủ thuế, luận án sẽ hướng đến chỉ ra ảnh hưởng của (i) Các yếu tố tâm lý xã hội (tinh thần thuế, chuẩn mực chủ quan, nhận thức về tính công bằng, niềm tin vào cơ quan thuế, nhận thức về quyền lực của cơ quan thuế, nhận thức về thuế); (ii) các yếu tố thuộc về thể chế (sự phức tạp về thuế, thông tin về thuế); (iii) các yếu tố thuộc về kinh tế (xử phạt, khả năng bị kiểm tra thuế); (iv) các yếu tố nhân khẩu học (tuổi, giới tính, trình độ); (v) các yếu tố khác (thu nhập, số năm hoạt động kinh doanh.) đến hành vi tuân thủ thuế tự nguyện và hành vi tuân thủ thuế bắt buộc của hộ kinh doanh cá thể làm nghề và kinh doanh nghề trong các làng nghề ở Việt Nam.


CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ sở lý luận chung về thuế

2.1.1. Khái niệm về thuế

Thuế ra đời và tồn tại với sự ra đời và tồn tại của nhà nước, do nhà nước và vì nhà nước. Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan và vì vậy, thuế là một tất yếu khách quan với chức năng chủ yếu và đầu tiên là bảo đảm nguồn thu và phục vụ nhu cầu chi tiêu theo chức năng của nhà nước (Lê Xuân Quang, 2012).

Thuế luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước, song quan niệm về thuế và sử dụng công cụ thuế mỗi thời lại khác. Ở Việt Nam, khái niệm về thuế cũng đã được nhiều tác giả, công trình khoa học đưa ra, cụ thể như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.

Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ cá nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng (Nguyễn Thị Liên và Nguyễn Văn Hiệu, 2009)

Thuế là khoản đóng góp theo quy định của pháp luật mà Nhà nước bắt buộc mọi tổ chức và cá nhân phải có nghĩa vụ nộp vào Ngân sách Nhà nước (Phan Hữu Nghị, Nguyễn Thị Bất, 2020)

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của hộ kinh doanh cá thể trong các làng nghề ở Việt Nam - 6

Theo Đỗ Đức Minh và Nguyễn Việt Cường (2010), Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.

Giáo trình Quản lý Tài chính công của Học viện tài chính quan niệm rằng “thuế là một hình thức động viên bắt buộc của nhà nước theo luật định, thuộc phạm trù phân phối, nhằm tập trung một bộ phận thu nhập của các thể nhân và pháp nhân vào ngân sách nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của nhà nước và phục vụ lợi ích công cộng”.

Như vậy, có thể thống nhất một khái niệm chung về thuế như sau: (i) về phương diện pháp luật: hệ thống thuế nhà nước là khoản đóng góp mang tính bắt buộc theo quy định của pháp luật nhằm hình thành ngân sách nhà nước; (ii) về phương diện kinh tế, hệ thống thuế nhà nước là khoản hình thành trong quá trình phân phối và phân phối lại tài sản xã hội, thu nhập quốc dân.

2.1.2. Đặc điểm về thuế

2.1.2.1. Mang tính bắt buộc và có tính pháp lý cao

Để nhà nước tồn tại nguồn thu từ thuế phải thường xuyên và ổn định. Nếu tự nguyện nộp thì không thể thường xuyên và ổn định được. Tính bắt buộc được thể hiện


dưới 2 khía cạnh sau:

Đối với các cơ quan thu thuế: Thu thuế là nghĩa vụ bắt buộc đối với cán bộ, cơ quan thu thuế. Cán bộ cơ quan thu thuế không được quyền lựa chọn đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế…

Đối với người nộp thuế: Đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho nhà nước khi có đủ điều kiện do pháp luật thuế quy định mà không phải quan hệ thanh toán trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Dù được thực hiện dưới hình thức nào, thuế vẫn thể hiện tính chất bắt buộc, đối tượng nộp thuế không có quyền trốn thuế hoặc mong muốn tự mình ấn định hay thỏa thuận mức đóng góp của mình mà chỉ có quyền chấp thuận. Những đối tượng nộp thuế vi phạm luật sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hoặc cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật để buộc họ phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế. Đây là điểm khác biệt giữa thuế với các khoản đóng góp mang tính chất tự nguyện.

Thuế do Quốc hội lập ra dưới hình thức là một đạo luật – là hình thức văn bản có tính pháp lý cao nhất do cơ quan quyền lực cao nhất, cơ quan lập pháp đặt ra. Đây là một điểm giúp phân biệt thu thuế và các khoản phí, lệ phí. Tuy cũng là những khoản thu có tính chất bắt buộc nhưng phí và lệ phí được thực hiện dựa theo các văn bản dưới luật. Có thể thấy, thuế và quyền lực nhà nước là hai phạm trù không thể tách rời. Nhà nước là chủ thể duy nhất đặt ra các khoản thuế và ngược lại thuế là phương tiện vật chất chủ yếu để duy trì quyền lực nhà nước. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Vì vậy, chỉ gắn với yếu tố quyền lực nhà nước, thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho nhà nước.

Theo quy định của pháp luật, thuế được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế: nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính hoặc cưỡng chế hình sự. Qua đó nhà nước đã gián tiếp đảm bảo tính ổn định trong xác định nguồn thu nhập tài chính của nhà nước và đảm bảo tính ổn định của thuế.

2.1.2.2. Tính không được hoàn trả trực tiếp

Tính không hoàn trả trực tiếp được hiểu là người đóng nhiều thuế không được đòi hỏi quyền lợi cao hơn so với người đóng ít thuế hơn (khác với phí và lệ phí, càng cao thì quyền lợi được hưởng càng cao). Khác với khoản vay, phí và lệ phí, thuế không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế (tuy nhiên, một phần thuế được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua các khoản phúc lợi xã hội, phúc lợi công cộng). Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện ở cả trước và sau khi thu thuế.


Trước khi thu thuế, nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ nào cho người nộp thuế. Sau khi thu thuế, nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế. Bởi vì kết quả của sử dụng các khoản thu từ thuế chủ yếu là các sản phẩm công (những lợi ích không thể xác định chính xác được theo giá trị vật chất).

Thuế được thu nhằm đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu của nhà nước, nên thuế không có đối khoản cụ thể. Điều này thể hiện rõ ở chỗ nguồn thu từ mỗi loại thuế không được quy định gắn với mục đích chi tiêu cụ thể nào cả mà đều được sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung của nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Vì thế, khi xem xét khái niệm thuế cũng phải hiểu thuế trên hai góc độ: thuế vừa công cụ huy động nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước và thuế vừa là công cụ giúp nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội hay công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế.

2.1.3. Cơ sở thuế, thuế suất và cấu trúc thuế suất

Cơ sở thuế là đối tượng tác động của một chính sách thuế. Tùy theo mục đích và tính chất của từng sắc thuế, cơ sở thuế có thể là các khoản thu nhập nhận được trong một thời gian nhất định của một số tổ chức kinh tế hoặc một cá nhân, tổng giá trị tài sản do tổ chức kinh tế hoặc cá nhân đó nắm giữ, tổng trị giá một lô hàng hóa hoặc một lượng giá trị nhất định của hàng hóa, dịch vụ.

Thuế suất là yếu tố quan trọng nhất của một loại thuế. Có thể nói, thuế suất là linh hồn của một sắc thuế. Nó phản ánh mức độ điều tiết trên một cơ sở thuế. Thuế suất cho biết mục đích, ý nghĩa tác động của loại thuế như thế nào. Thuế suất là mức thu ấn định trên cơ sở thuế bằng những phương pháp tính toán thích hợp. Từ đó hình thành các loại cấu trúc thuế suất khác nhau.

Cấu trúc thuế suất bao gồm: thuế suất cố định, thuế suất tỷ lệ, thuế suất lũy tiến, thuế suất lũy thoái.

2.1.4. Phân loại thuế

Thuế thường được phân loại gồm 2 loại là thuế trực thu và thuế gián thu

Thuế trực thu:

Thuế trực thu là thuế điều tiết trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế. Ví dụ: thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà đất…

Thuế này có tính công bằng hơn thuế gián thu, vì phần đóng góp về thuế thường phù hợp đối với khả năng của từng đối tượng, có tính phân loại đối tượng nộp.


Thuế trực thu có nhược điểm là hạn chế phần nào sự cố gắng tăng thu nhập của các đối tượng, vì thu nhập và lợi nhuận càng cao thì phải nộp thuế càng nhiều.

Thuế trực thu do người có thu nhập phải trả một cách trực tiếp và có ý thức cho nhà nước, nên họ cảm nhận ngay được gánh nặng về thuế và có thể dẫn tới những phản ứng từ chối hoặc trốn thuế.

Hoạt động quản lý thu thuế này phức tạp và chi phí thường cao so với thuế gián thu.

Thuế gián thu

Là thuế không điều tiết trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế mà điều tiết thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ: thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu…

Thuế này dễ thu hơn thuế trực thu vì tránh được quan hệ trực tiếp giữa NNT (người tiêu dùng) với cơ quan thu thuế.

Thuế này dễ điều chỉnh hơn thuế trực thu vì những NNT thường không cảm nhận đầy đủ gánh nặng của loại thuế này

2.1.5. Hệ thống thuế

Hệ thống thuế là tổng hợp các sắc thuế khác nhau có mối quan hệ thống nhất, biện chứng, phụ thuộc nhau, cùng hướng vào một mục tiêu chung nhằm thực hiện các nhiệm vụ nhất định của Nhà nước trong từng thời kỳ (Nguyễn Thị Liên và Nguyễn Văn Hiệu, 2009). Và một hệ thống thuế tối ưu phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:

Tính hiệu quả kinh tế

Hệ thống thuế phải đảm bảo hiệu quả can thiệp đối với nền kinh tế là lớn nhất; giảm tối thiểu những tác động tiêu cực của thuế trong phân bổ nguồn lực kinh tế đã đạt được hiệu quả dưới tác động thị trường; tăng cường vai trò của thuế đối với phân bổ nguồn lực chưa đạt hiệu quả.

Trên thực tế khi thu thuế bao giờ cũng phát sinh chi phí trực tiếp của cơ quan thuế (chi phí để thu thuế) và chi phí gián tiếp (chi phí tuân thủ của đối tượng nộp thuế).

Tính đơn giản

Hệ thống thuế đơn giản nhằm giảm bớt chi phí hành chính. Mặt khác hệ thống thuế có đơn giản, dễ hiểu thì quản lý, kiểm tra kiểm soát của nhà nước đối với người nộp thuế mới dễ dàng thuận lợi. Nếu một chính sách thuế phức tạp với quá nhiều mức thuế suất phân biệt và các điều khoản miễn giảm thuế sẽ gây ra tình trạng không có chuẩn mực rõ ràng trong cách hiểu và vận hành, làm cho người nộp thuế khó hiểu và do đó khó tự giác chấp hành, còn cơ quan thuế gặp khó khăn trong quản lí thu nộp. Vì


lẽ đó phát sinh ra sự tùy tiện, tạo kẽ hở trốn thuế và tránh thuế, đồng thời tăng chi phí hành chính thuế.

Tính linh hoạt

Hệ thống thuế phải có tính linh hoạt, được thể hiện thông qua khả năng thích ứng một cách dễ dàng với những hoàn cảnh kinh tế thay đổi. Một số chính sách thuế có cơ chế ổn định tự động rất hữu hiệu đó là thuế thu nhập. Mức thuế thu nhập sẽ tự thay đổi mà không cần phải thay đổi bản thân chính sách thuế.

Tuy nhiên tính tự động điều chỉnh chưa thật sự tỏ ra hữu hiệu, nó chưa có những tác động đủ mạnh trước sự biến động của nền kinh tế, vì vậy bắt buộc các chính phủ phải chủ động điều chỉnh các loại thuế suất.

Xây dựng hệ thống thuế tối ưu chính là kết hợp những tiêu chí đó một cách tối ưu nhất.

Tính công bằng

Tính công bằng là đòi hỏi khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử. Trong một xã hội dân chủ, tính công bằng cần phải thực hiện trước hết đối với phân chia gánh nặng thuế khóa. Các nhà kinh tế cho rằng tính công bằng của thuế phải dựa trên nguyên tắc công bằng ngang và nguyên tắc công bằng dọc.

Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang: nếu các cá nhân có điều kiện về mọi mặt là như nhau thì được đối xử ngang nhau trong thực hiện nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên thì tiêu chí này chỉ mang tính định hướng vì rất khó cụ thể hóa các tiêu thức xác định như thế nào là có điều kiện khác nhau.

Hệ thống thuế có tính công bằng theo chiều dọc nếu người có khả năng nộp thuế nhiều hơn thì phải nộp thuế cao hơn người khác. Một hệ thống có tính công bằng dọc sẽ được hiểu là một hệ thống thuế lũy tiến so với thu nhập nhằm hạn chế bớt khoảng cách giàu nghèo và đảm bảo tính công bằng xã hội.

2.1.6. Đối tượng áp dụng luật quản lý thuế

Theo luật quản lý thuế (2019), điều 2 về đối tượng áp dụng luật quản lý thuế quy định:

Người nộp thuế bao gồm:

Tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế;

Tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước;


Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế.

Cơ quan quản lý thuế bao gồm:

Cơ quan thuế bao gồm Tổng cục Thuế, Cục Thuế, Chi cục Thuế, Chi cục Thuế khu vực;

Cơ quan hải quan bao gồm Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan, Cục Kiểm tra sau thông quan, Chi cục Hải quan.

Công chức quản lý thuế bao gồm công chức thuế, công chức hải quan.

Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.

2.2. Khái niệm, bản chất và phân loại về tuân thủ thuế

2.2.1. Khái niệm, bản chất về tuân thủ thuế

Để tiếp cận khái niệm tuân thủ thuế, trước hết cần bắt đầu từ khái niệm tuân thủ. Từ điển Tiếng Việt (1998) định nghĩa tuân thủ là “Giữ và làm đúng theo điều đã quy định”. Từ tuân thủ trong tiếng Anh là “compliance” được định nghĩa là “Conforming to a rule, such as a specification, policy, standard or law”. Nghĩa là “Làm theo một quy tắc, một nguyên tắc, một quy định, chẳng hạn như một quy định, một chính sách, một chuẩn mực hoặc một luật lệ” (Andreoni và Erard, 1998).

Như vậy, có thể hiểu, tuân thủ thuế là thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật thuế. Tuân thủ thuế là hành vi bắt buộc đối với nhiều chủ thể khác nhau như cơ quan quản lý thuế, người nộp thuế, các tổ chức, cá nhân khác có liên quan được quy định trong các văn bản pháp luật về thuế. Trong đó, gia tăng sự tuân thủ của người nộp thuế vẫn là một trong những vấn đề lớn nhất và quan trọng nhất trong lĩnh vực thuế (Weisbach và Plesko, 2007) và cũng như vậy, tuân thủ thuế là một chủ đề nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Tuân thủ thuế được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa khác nhau, tuy nhiên chưa có một định nghĩa chung nhất về tuân thủ thuế (Devos 2008), và theo tác giả có thể nhìn nhận tuân thủ thuế như sau:

Thứ nhất, tuân thủ thuế có lẽ là thuật ngữ trung lập nhất để mô tả sự sẵn sàng nộp thuế của người nộp thuế (Kirchler, 2007). Kirchler và cộng sự, (2006) đã so sánh khái niệm tuân thủ thuế với một trò chơi phụ thuộc vào sự tương tác qua lại giữa các quyết định của người nộp thuế và cơ quan thuế, cũng như sự tin tưởng của người nộp thuế vào luật pháp và sự công bằng của hệ thống thuế.

Thứ hai, tuân thủ thuế là mức độ tuân thủ pháp luật về thuế của đối tượng nộp thuế (James và Alley, 2002), là mức độ đối tượng nộp thuế chấp hành nghĩa vụ thuế được quy định trong pháp luật về thuế (James và Alley, 1999). OECD (2004) định nghĩa tuân thủ thuế là phạm vi mà đối tượng nộp thuế phải hoàn thành các nghĩa vụ


thuế của mình.. Tuân thủ thuế là mức độ đối tượng (người) nộp thuế tuân thủ (hoặc không tuân thủ) các quy định về thuế của quốc gia mình (OECD, 2016). Hay có thể hiểu tuân thủ thuế đề cập đến hoàn thành tất cả các nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật một cách đầy đủ, hoặc mức độ tuân thủ hoặc không tuân thủ các quy định pháp luật về thuế của quốc gia mà đối tượng nộp thuế thực hiện (Braithwaite, 2009.

Thứ ba, tuân thủ thuế có thể được định nghĩa là tuân thủ các quy tắc hành chính về khai thuế và tính thuế chính xác dựa trên các yêu cầu, quy định của luật thuế, cũng như nộp thuế đúng hạn dựa trên các quy định của pháp luật về thuế (OECD, 2001). Allingham và Sandmo (1972) định nghĩa tuân thủ thuế là quyết định kê khai thu nhập thực tế với cơ quan thuế trong điều kiện không chắc chắn. Nghĩa là, người nộp thuế có thể quyết định kê khai số tiền thực tế phải nộp thuế hoặc ít hơn số tiền thực tế; quyết định của họ phụ thuộc vào xác suất bị bắt và tỷ lệ phạt. Khi đó, tuân thủ thuế là khi đối tượng nộp thuế chuẩn bị và báo cáo tờ khai thuế của họ đúng thời hạn và chính xác, phù hợp với các quy định pháp luật (Mustapha,2010) và nộp tờ khai thuế vào thời điểm thích hợp (theo Hamm, 1995), báo cáo tất cả thu nhập, thanh toán toàn bộ nghĩa vụ thuế bằng cách thực hiện thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế theo quy định của luật thuế, các quyết định của tòa án (nếu có) (Jackson, Milliron,1986 và Alm,1991) và thanh toán đầy đủ tất cả các khoản thuế đến hạn (Braithwaite, 2009).

Khi đó tuân thủ thuế bao gồm nộp hồ sơ, báo cáo và thanh toán (Plumly, 1996). Trong đó, tuân thủ nộp hồ sơ đề cập đến nộp các biểu mẫu khai thuế kịp thời, tuân thủ báo cáo liên quan đến báo cáo chính xác về thu nhập và nghĩa vụ thuế, và tuân thủ thanh toán liên quan đến thanh toán đúng hạn tất cả các nghĩa vụ thuế (Plumly 1996). Nhất quán với điều này, Shukla và cộng sự (2011) cho rằng mức độ tuân thủ thuế được định nghĩa là tỉ lệ giữa số tiền thuế thực thu với số tiền thuế có thể thu được tiềm năng. Ngược lại, tỉ lệ không tuân thủ hay mức độ thất thoát nguồn thu thuế được tính bằng 1 trừ đi tỉ lệ tuân thủ. Trên cơ sở các số liệu về quản lý thuế, mức độ tuân thủ thường được ước tính cho ba giai đoạn chính hay cho các chức năng quản lý thuế chính (kê khai, tính thuế, và nộp thuế/thu thuế). Trong đó:

Tuân thủ về nộp tờ khai: Mức độ tuân thủ về nộp tờ khai có thể được chia thành ba chỉ số khác nhau.

o Đầu tiên là tuân thủ trong nộp tờ khai của đối tượng nộp thuế. Chỉ số này đo lường tỉ lệ giữa số tờ khai được nộp thực tế và số tờ khai đối tượng nộp thuế đăng ký tại cơ quan thuế. Các tờ khai được nộp có thể bao gồm cả tờ khai nộp đúng hạn và tờ khai chậm nộp.

Xem tất cả 256 trang.

Ngày đăng: 18/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí