Một nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thương thiệt hại mà Bộ luật dân sự quy định là bên vi phạm hợp đồng gây hại bao nhiêu thì phải chịu trách nhiệm bồi thường bấy nhiêu. Cụ thể, Điều 238 Luật Thương Mại 2005 quy định: “Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics không vượt quá giới hạn trách nhiệm với tổn thất hàng hóa”. Với quy định này thì giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa là một ngoại lệ của chế tài bồi thường trong luật thương mại nói chung. Cụ thể. Theo điều 302 Luật Thương mại 2005 :
“ Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm .”
Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 238 Luật Thương mại 2005: “Người làm dịch vụ logistics không được hưởng quyền giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu người có quyền và lợi ích liên quan chứng minh được sự mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm là do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic cố ý gây ra hoặc không hành động để gây ra mất mát, hư hỏng; chậm trễ hoặc đã hành động hoặc không hành động một cách mạo hiển và biết rằng sự mất mát, hư hỏng và chậm trễ đó chắc chắn xảy ra” . Như vậy, để xác định một thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có được hưởng quyền miễn trừ giới hạn trách nhiệm hay không thì bên cạnh sự thỏa thuận của các bên còn cần xem xét đến lỗi của bên vi phạm trong từng trường hợp cụ thể.
Nghị định 140/2007/NĐ-CP cũng có quy định cụ thể về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tại Điều 8 :
“Điều 8. Giới hạn trách nhiệm
1. Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc liên quan đến vận tải thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan về giới hạn trách nhiệm trong lĩnh vực vận tải.
2. Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc không thuộc phạm vi khoản 1 Điều này do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không có thoả thuận thì thực hiện như sau:
a) Trường hợp khách hàng không có thông báo trước về giá trị của hàng hoá thì giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường.
b) Trường hợp khách hàng đã thông báo trước về giá trị của hàng hoá và được thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc xác nhận thì giới hạn trách nhiệm là toàn bộ giá trị của hàng hoá đó.
3. Giới hạn trách nhiệm đối với trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ lô- gi-stíc tổ chức thực hiện nhiều công đoạn có quy định giới hạn trách nhiệm khác nhau là giới hạn trách nhiệm của công đoạn có giới hạn trách nhiệm cao nhất. ”
Có thể bạn quan tâm!
- Các vấn đề pháp lý về dịch vụ Logistics tại Việt Nam - 1
- Các vấn đề pháp lý về dịch vụ Logistics tại Việt Nam - 2
- Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý, Giảm Thiểu Chi Phí Trong Quá Trình Sản Xuất, Tăng Cường Sức Cạnh Tranh Cho Các Doanh Nghiệp
- Các Quy Định Của Pháp Luật Nước Ngoài Cũng Như Kinh Nghiệm Trong Công Tác Quản Lý Nhà Nước Về Dịch Vụ Logistics
- Quy Mô Doanh Nghiệp Kinh Doanh Dịch Vụ Logistics Nhỏ
- Các vấn đề pháp lý về dịch vụ Logistics tại Việt Nam - 7
Xem toàn bộ 69 trang tài liệu này.
1.3.2. Về các trường hợp miễn trách nhiệm
Luật thương mại 2005 quy định cụ thể về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm hợp đồng nói chung tại Điều 294 và đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistíc nói riêng tại Điều 237.
Điều 294 “ Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm .“ Điều 237 “ Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
1. Ngoài những trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về những tổn thất đối với hàng hoá phát sinh trong các trường hợp sau đây:
a) Tổn thất là do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền;
b) Tổn thất phát sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics làm đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền;
c) Tổn thất là do khuyết tật của hàng hoá;
d) Tổn thất phát sinh trong những trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật và tập quán vận tải nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tổ chức vận tải;
đ) Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về khiếu nại trong thời hạn mười bốn ngày, kể từ ngày thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics giao hàng cho người nhận;
e) Sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Toà án trong thời hạn chín tháng, kể từ ngày giao hàng.
2. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về việc mất khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng, về sự chậm trễ hoặc thực hiện dịch vụ logistics sai địa điểm không do lỗi của mình.”
Như đã đề cập, kinh doanh dịch vụ logistics là ngành nghề luôn tiềm ẩn tính rủi ro cao với hợp đồng dịch vụ có giá trị lớn, cần đưa ra những quy định chung làm khung cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp giữa các bên nếu có phát sinh để bảo vệ quyền lợi của chủ thể kinh doanh dịch vụ logistics nói riêng và các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng nói chung .
2. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN DỊCH VỤ LOGISTICS
Dịch vụ logistics được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau:
Thứ nhất, Luật Thương Mại 2005 (từ điều 233 đến điều 240) và nghị định hướng dẫn thi hành (Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 05-09-2007)
Khác với khung pháp luật của nhiều nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam định nghĩa khá cụ thể về dịch vụ logistics trong văn bản pháp luật (Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định số 140/2007/NĐ-CP).
Luật thương mại năm 2005 định nghĩa dịch vụ logistics (Điều 233) và quy định khái quát về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics (Điều 234); quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics và khách hàng (các Điều 235, 236); các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
(Điều 237); giới hạn trách nhiệm (Điều 238); quyền cầm giữ và định đoạt hàng hoá và nghĩa vụ của người cầm giữ hàng (các Điều 239, 240).
Điều 233 Luật thương mại năm 2005 quy định:
“Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.
Theo Điều 4 Nghị định số 140/2007/NĐ-CP, dịch vụ logistics được phân loại như sau:
“1. Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
a) Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
b) Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hoá, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi container và kho xử lí nguyên liệu, thiết bị;
c) Dịch vụ đại lí vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lí làm thủ tục hải quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hoá;
d) Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lí thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hoá trong suốt cả chuỗi logistics; hoạt động xử lí lại hàng hoá bị khách hàng trả lại, hàng hoá tồn kho, hàng hoá quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hoá đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container.
2. Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
a) Dịch vụ vận tải hàng hải;
b) Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;
c) Dịch vụ vận tải hàng không;
d) Dịch vụ vận tải đường sắt; đ) Dịch vụ vận tải đường bộ.
e) Dịch vụ vận tải đường ống.
3. Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
a) Dịch vụ kiểm tra và phân tích kĩ thuật;
b) Dịch vụ bưu chính;
c) Dịch vụ thương mại bán buôn;
d) Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lí hàng lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hoá, phân phối lại và giao hàng;
đ) Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác”.
Về cơ bản, cách hiểu của pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics đã hài hoà với thông lệ quốc tế.
Thứ hai , dịch vụ Logistics cũng được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự thông qua lĩnh vực hợp đồng dịch vụ Logistics . Về cơ bản, hợp đồng dịch vụ Logistics cũng là một dạng của hợp đồng dân sự . Vì vậy, hợp đồng dịch vụ Logistics chịu sự điều chỉnh và tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau :
- Nguyên tắc tự do thỏa thuận. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về rất nhiều nội dung trong hợp đồng như trách nhiệm đối với hàng hóa, thời hạn, giá cả thực hiện hợp đồng , trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm đối với hàng hóa bị hư hỏng ,mất mát , thỏa thuận chọn hình thức, luật và nơi giải quyết tranh chấp. Mặc dùg vậy, các bên trong hợp đồng có trách nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ như đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ.
- Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế. Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, nếu các bên tham gia hợp đồng có yếu tố nước ngoài thì được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam ( Điều 5, Luật Thương mại 2005)
Thứ ba, như đã trình bày ở trên , Thương nhân, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ Logistics cũng giống như những thương nhân, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh các dịch vụ khác đều phải tuân theo những quy định về “ thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh “ của Luật doanh nghiệp năm 2014 ( Điều 18 và 19 Luật Doanh nghiệp năm 2005 ).
Thứ tư, đối với hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới, dịch vụ Logistics sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Hải quan về thủ tục kê khai, đăng ký hồ sơ hải quan của hàng hóa đó ( Điều 24,25,29 và 30 Luật Hải quan năm 2014 )
Bên cạnh đó, thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics có liên quan đến vận tải ngoài việc áp dụng thủ tục đăng ký kinh doanh thông thường còn phải đáp ứng
các điều kiện được quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành như : vận tải đường biển sẽ tuân theo quy định của Bộ luật Hàng hải, Nghị định số 49/2006/NĐ- CP ngày 18-05-2006 về thủ tục đăng ký tàu biển ( bao gồm thế chấp tàu biển ), Nghị định số 115/2007/NĐ-CP ngày 05-07-2007 về điều kiện kinh doanh dịch vụ vận tải biển ; vận tải đường bộ sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Giao thông đường bộ (2001), Thể lệ vận chuyển hàng hóa bằng đường ô- tô , Nghị định số 110/2006/NĐ- CP ngày 28-09-2006 về điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô tô ; vận tải đường thủy tuân theo quy định của Luật Giao thông đường thủy nội địa (2004) ; vận tải hàng không theo Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006 , Điều lệ vận chuyển hàng hóa quốc tế của Hãng hàng không quốc gia Việt Nam 1993...
3. CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS
Trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thế giới, hoạt động kinh doanh dịch vụ Logistics ở Việt Nam không chỉ chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật, tập quán trong nước mà còn chịu sự điều chỉnh của các quy phạm, cam kết và thông lệ quốc tế. Theo dòng chảy của sự phát triển kinh tế, dịch vụ vận tải là một trong những ưu tiên hàng đầu với thương mại hàng hóa quốc tế. Vì lý do đó, các thành viên WTO luôn dành sự quan tâm đến việc tự do hóa thị trường dịch vụ vận tải, đặc biệt là đối với vận tải hàng hải và các dịch vụ hỗ trợ khác như dịch vụ xếp dỡ hàng hóa, dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa, dịch vụ giao nhận và dịch vụ kho bãi. Theo thống kê, trong số 28 quốc gia và vùng lãnh thổ yêu cầu đàm phán song phương với Việt Nam, có tới 11 đối tác yêu cầu đàm phán về dịch vụ vận tải (gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Na Uy, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ, Canada, Australia, New Zealand, Đài Loan).
Về dịch vụ vận tải
Cam kết về dịch vụ vận tải hàng hải của Việt Nam là tương đối cao nhưng theo đánh giá thì mức độ ảnh hưởng của từng cam kết với các doanh nghiệp còn phụ thuộc vào tình hình thực tiễn của thị trường cung cấp dịch vụ đó.
Theo đó, Việt Nam cam kết “không hạn chế” về dịch vụ vận tải hàng hải nhưng xét về thực chất cam kết này không ảnh hưởng quá nhiều đến các doanh nghiệp vận tải hàng hải Việt Nam vì trên thực tế thị trường này hoàn toàn thuộc về các hãng tàu biển nước ngoài. Hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực đại
28
lý vận tải hàng hóa đường biển và đại lý tàu biển sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi cam kết cho phép các công ty vận tải hàng hải nước ngoài được thành lập liên doanh với tỉ lệ góp vốn quá 51% ngay từ khi gia nhập và được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập. Điểm mấu chốt của cam kết này doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do công ty vận tải hàng hải nước ngoài thành lập chỉ được phép thực hiện cádc hoạt động phục vụ cho chính công ty mẹ mà không được phép cung cấp dịch vụ cho khách hàng khác. Các công ty vận tải hàng hải nước ngoài vận chuyển hàng hóa đi, đến Việt Nam, nếu không thành lập đại diện thương mại tại Việt Nam thì vẫn phải sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó, đối với dịch vụ xếp dỡ container, Việt Nam cam kết cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thành lập liên doanh với tỉ lệ góp vốn không quá 50% và không có lộ trình mở rộng hơn nữa. Mặt khác, dịch vụ đại lý tàu biển không được đưa vào biểu cam kết dịch vụ nhằm mục đích bảo hộ các doanh nghiệp trong nước. Việt Nam không có bất kì cam kết nào với Hoa Kì theo BTA về dịch vụ vận tải hàng hải nhưng có cam kết với EU theo Hiệp định Việt Nam - EU về tiếp cận thị trường ngày 03/12/2004 và Hiệp định song phương Việt Nam - EU về việc Việt Nam gia nhập WTO ngày 09/10/2004. Theo các cam kết này, Việt Nam cho phép nhà cung cấp dịch vụ vận tải hàng hải được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Bộ luật hàng hải năm 2005 điều chỉnh dịch vụ vận tải hàng hải của cả người Việt Nam lẫn người nước ngoài. Bộ luật cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thực hiện rất nhiều dịch vụ vận tải hàng hải, kể cả vận tải nội địa trong những trường hợp nhất định. Về nguyên tắc, Bộ luật hàng hải năm 2005 cho phép đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực cảng biển. [13]
Cụ thể,trên tinh thần của thỏa thuận VN-EU về mở cửa thị trường ký ngày 3- 12-2004 và thỏa thuận gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới giữa VN-EU ký tắt ngày 9-10-2004, tháng 03/2005, Công ty Maersk A/S (Đan Mạch) được cấp phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam với số vốn điều lệ 1 triệu USD%, cung cấp dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa đường biển bao gồm các hoạt động như đại diện cho chủ hàng, hoạt động giao nhận kho bãi, dịch vụ vận tải hàng hóa bằng đường biển... . Đây là công ty 100% vốn nước ngoài đầu tiên tham gia lĩnh
29
vực giao nhận vận tải của Việt Nam, giới hạn tỉ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các liên doanh ở mức 4:9 [27]
- Về dịch vụ vận tải hàng không
WTO không điều chỉnh về vận tải hàng không mà tập trung điều chỉnh về một số dịch vụ hỗ trợ như tiếp thị và bán sản phẩm hàng không , đặt giữ chỗ bằng máy tính và dịch vụ bảo dưỡng sửa chữa tàu bay. Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường dịch vụ bảo dưỡng và sửa chữa máy bay, cho phép doanh nghiệp nước ngoài liên doanh với đối tác Việt Nam vào thời điểm gia nhập WTO, được thành lập vốn doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài sau 5 năm gia nhập WTO.[15, 18-25]
- Về các dịch vụ vận tải khác
Các phân ngành dịch vụ khác đều có cam kết chặt chẽ nhằm tạo điều kiện cho các nhà cung cấp dịch vụ trong nước có thời gian để tự chuyển giao, đổi mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Dịch vụ vận tải đường sắt chuyển sang hướng tự do hóa cung cấp dịch vụ cho mọi thành phần kinh tế nên được xem xét cam kết ở mức độ thận trọng hơn với quy định cho phép thành lập liên doanh tối đa với tỉ lệ 49% vốn nước ngoài.
- Về dịch vụ chuyển phát nhanh
Tuy không có cam kết về dịch vụ chuyển phát nhanh BTA giữa Việt Nam và Hoa Kì nhưng có thỏa thuận đàm phán song phương của Việt Nam khi gia nhập WTO với Hoa Kì cho phép các công ti chuyển phát nhanh nước ngoài hoạt động với tư cách bên góp vốn đa số trong liên danh với đối tác Việt Nam ở thời diểm gia nhập và thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO
Các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên bao gồm :
- Công ước của Liên Hơp Quốc về vận tải hàng hóa quốc tế đa phương thức 1980
- Công ước Vascxava về vận chuyển hàng không quốc tế năm 1929
- Công ước Kyoto
- Điều kiện thương mại quốc tế Incoterm 2000
- Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa phương thức được ký kết trong khuôn khổ Hội nghị lần thứ 11 các Bộ trưởng Giao thông vận tải ASEAN diễn ra tại Lào vào cuối tháng 11-2005