Như vậy, nếu xuất phát từ hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, có thể phát biểu khái niệm các tội xâm phạm TTQLKT như sau: Các tội xâm phạm TTQLKT là các hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế, xâm phạm cơ chế Nhà nước quản lý, vận hành nền kinh tế, gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế, lợi ích của Nhà nước, các chủ thể kinh tế và người tiêu dùng.
Nếu xuất phát từ khái niệm chung về tội phạm và khách thể loại (nhóm) của tội phạm, có thể phát biểu khái niệm các tội xâm phạm TTQLKT như sau: Các tội xâm phạm TTQLKT là các hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách có lỗi, xâm hại các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý, vận hành nền kinh tế giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế và các chủ thể kinh tế.
Trong lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước có rất nhiều loại tội phạm khác nhau, trong đó có các loại tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị giá tăng. Trước khi BLHS 1999 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009 thì trong lĩnh vực thuế GTGT chưa có điều luật cụ thể nào quy định trực tiếp về các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực thuế GTGT. Trong giai đoạn này, hành vi chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng được Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT/BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 23 tháng 11 năm 2004 Hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi mua bán, sử dụng trái phép hóa đơn giá trị gia tăng thì hành vi hoàn thuế giá trị gia tăng tùy từng tính chất, đặc điểm của hành vi và chủ thể mà có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội tham ô tài sản, tội buôn lậu, tội trốn thuế [51]....
Tuy nhiên, hiện nay, Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT/BCA- TANDTC-VKSNDTC-BTP đã bị thay thế bằng Thông tư liên tịch số 10/2013/TTLT/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 26 tháng 6 năm
2013 hướng dẫn một số điều của BLHS về tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài
chính - kế toán và chứng khoán. Hiện nay, theo Thông tư trên thì không quy định trực tiếp việc chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT sẽ áp dụng trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội tham ô tài sản, cũng như tội buôn lậu và tội trốn thuế. Về bản chất, hành vi chiếm đoạt tiền hoàn thuế, vẫn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm trên. Tuy nhiên, các tội phạm về lừa đạo chiếm đoạt tài sản (Chương xâm phạm sở hữu) và Tội tham ô tài sản (Chương các tội phạm về chức vụ) không thuộc phạm vi của các tội phạm xâm phạm TTQLKT (Chương XVI - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế) do đó, trong phạm vi luận văn này, để phù hợp với tên đề tài, chúng tôi chỉ nghiên cứu về các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng mà không nghiên cứu về các tội phạm trong các chương khác cũng liên quan đến chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT.
Sau khi BLHS được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009, đã bổ sung thêm hai tội danh liên quan đến xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hóa đơn, chứng từ là Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ, thu nộp ngân sách nhà nước và Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước. Như vậy, về bản chất, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT theo quy định của BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 bao gồm các tội phạm sau: Tội trốn thuế; Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ, thu nộp ngân sách nhà nước và Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước. Bởi lẽ, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT, người phạm tội sẽ tiến hành các hành vi khác liên quan đến hợp thức hóa hóa đơn, chứng từ để chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT từ nhà nước. Đồng thời kết quả của quá trình chiếm đoạt này cũng góp phần thực hiện hành vi trốn thuế của các đối tượng phạm tội.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT như sau:
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi, xâm hại các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế ở lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng.
1.1.2.2. Đặc điểm của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng.
Có thể bạn quan tâm!
- Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng theo Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng - 1
- Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng theo Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng - 2
- Khái Niệm, Đặc Điểm Về Hoàn Thuế Giá Trị Gia Tăng.
- Quy Định Của Bộ Luật Hình Sự Năm 1985 Về Các Tội Xâm Phạm Các Tội Xâm Phạm Trật Tự Quản Lý Kinh Tế .
- Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng theo Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng - 6
- Quy Định Của Bộ Luật Hình Sự Về Tội In, Phát Hành, Mua Bán Trái Phép Hóa Đơn, Chứng Từ Thu Nộp Ngân Sách Nhà Nước.
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng có các đặc điểm sau.
Thứ nhất, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng có đầy đủ các đặc điểm của tội phạm nói chung. Theo các nhà luật hình sự hiện nay, tội phạm bao gồm các dấu hiệu cơ bản là: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự. Từ dấu hiệu chung của tội phạm chúng ta có thể thấy, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT cũng có các đặc điểm như: tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự và tính có lỗi. Bởi lẽ quan hệ giữa nhóm tội phạm này với các tội phạm nói chung là quan hệ giữa cái cụ thể và cái toàn thể. Do cái cụ thể cần phải có đầy đủ đặc tính của cái toàn thể nên các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT có đầy đủ những đặc tính của tội phạm nói chung.
Thứ hai, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT là các tội phạm trong Chương các tội xâm phạm TTQLKT, do đó, tính chất chung của nó là các tội phạm này xâm phạm tới các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế, vận hành nền kinh tế giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế và các chủ thể kinh tế [32, tr.27]. Như vậy, từ đặc điểm này ta có thể rút gọn được đối tượng nghiên cứu của luận văn, theo đó luận văn chỉ nghiên cứu về các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT chứ không nghiên cứu về các tội phạm nói chung trong lĩnh vực hoàn thuế
GTGT như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội tham ô, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.... Như vậy, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT trước hết phải là các tội phạm nằm trong Chương các tội xâm phạm TTQLKT nói chung, có đầy đủ đặc điểm của nhóm các tội phạm này, trong đó vấn đề quan trọng nhất là khách thể nhóm của các tội phạm này là xâm hại các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý, vận hành nền kinh tế.
Thứ ba, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT có đặc trưng là đều liên quan đến các hành vi mua bán, sử dụng hóa đơn GTGT và các tờ khai thuế GTGT để nhằm các mục đích khác nhau như: lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tham ô tài sản, trốn thuế, buôn lậu cũng từ đó BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã bổ sung thêm hai tội phạm liên quan đến lĩnh vực này đó là Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước và Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ nộp ngân sách nhà nước. Như vậy, các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT phải là các tội vừa nằm trong Chương các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT, tuy nhiên, phải xâm phạm trực tiếp tới quá trình mua bán, sử dụng hóa đơn GTGT và các hành vi có liên quan đến hoạt động thu nộp thuế GTGT, bao gồm các tội: Tội trốn thuế; Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước và Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ nộp ngân sách nhà nước.
1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985.
Cách mạng tháng 8 thành công, những toàn Đảng, toàn dân vẫn phải đương đầu với cuộc chiến chống giặc đói, giặc rét và giặc ngoại xâm. Những hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế của nhân dân, xâm phạm chế độ kinh tế, tài chính của đất nước được đánh giá có mức độ nguy hiểm ngang bằng và cần nghiêm trị như những hành vi chống đối chính quyền Cách mạng.
Nhằm trừng trị kịp thời những hành vi xâm phạm pháp luật kinh tế, bảo vệ nền kinh tế non trẻ của đất nước, tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật chủ yếu dưới dạng các sắc lệnh. Trong đó phải kể đến các sắc lệnh quan trọng như:
- Sắc lệnh số 07/SL của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 05/9/1945 về việc để sự buôn bán và chuyên chở thóc gạo được tự do trong toàn hạt Bắc bộ. Sắc lệnh 07/SL đề ra đường lối xử lý nghiêm khắc đối với các hành vi tích trữ thóc gạo, mưu sự đầu cơ xét ra có phương hại đến nền kinh tế. Khoản thứ tư của Sắc lệnh nêu rõ: “Kẻ nào tích trữ thóc gạo, mưu sự đầu cơ, xét ra có phương hại đến nền kinh tế sẽ bị nghiêm phạt theo quân luật và gia sản sẽ bị tịch thu”.
- Sắc lệnh số 202/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 15/10/1946 quy định về việc buôn bán vàng bạc. Điều thứ 5 Sắc lệnh quy định: Nếu trái với các điều nói trên (quy định về buôn bán vàng) sẽ bị phạt: Tiền nhất thiết gấp ba số vàng gian lận hay định gian lận; Tù từ một
tháng đến hai năm hoặc sẽ phải chịu một trong hai thứ hình phạt ấy; Nếu tái phạm có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
- Sắc lệnh số 180/SL ngày 20 - 12 - 1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ấn định hình phạt đối với những hành vi phá hoại nền tài chính quốc gia, làm tội thiệt đến giá trị hay làm khó dễ cho sự lưu hành giấy bạc Việt Nam. Điều 1 Sắc lệnh quy định: Những người đầu cơ tiền tệ, làm giấy bạc giả, lưu hành giấy bạc giả, tàng trữ hay lưu hành những giấy bạc của địch hay đã có lệnh cấm, hoặc có những hành động có tính cách phá hoại nền tài chính quốc gia sẽ bị truy tố trước Toà án quân sự.
Có thể nói đây là những quy định đầu tiên của Nhà nước về các tội phạm kinh tế nói chung, các tội xâm phạm TTQLKT nói riêng. Nhìn chung, các quy định còn đơn giản, song đã khẳng định khá rõ ràng quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là nghiêm phạt các hành vi gây phương hại cho nền kinh tế, tài chính của đất nước.
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 mở ra giai đoạn mới của Cách mạng Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh giải phóng Miền Nam. Hiến pháp năm 1959 ra đời thay thế Hiến pháp năm 1946 và là cơ sở pháp lý cho nhiệm vụ ở giai đoạn mới của Cách mạng Việt Nam. Chương II Hiến pháp năm 1959 (từ Điều 9 đến Điều 21), quy định rõ chế độ kinh tế của Việt Nam là “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa” (Điều 9) với “kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước đảm bảo phát triển ưu tiên” (Điều 12). Trên cơ sở quy định này, tính chất của quan hệ xã hội là khách thể của các tội phạm về kinh tế đã được xác lập.
Để bảo vệ chế độ kinh tế theo Hiến pháp năm 1959, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng làm cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh chống các tội phạm về kinh tế. Một số hành vi phạm tội về kinh tế được đánh giá là có mức độ nghiêm nguy hiểm cho xã hội cao và cần bị nghiêm trị là:
- Hành động đầu cơ về kinh tế (Sắc luật số 001/SLt của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ngày 19-4-1957 cấm chỉ mọi hành động đầu cơ về kinh tế );
- Các hành động buôn bán, tích trữ, vận chuyển trái phép vật tư, hàng hoá do Nhà nước thống nhất quản lý (Chỉ thị số 146-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 5-6-1974);
- Các hành động chống thuế nông nghiệp (Thông tư 3887-VNH/HS ngày 02-11-1957 của Bộ Tư pháp);
- Việc nấu rượu trái phép (Pháp lệnh ngày 13-10-1966 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội);
- Các hành vi đầu cơ, buôn lậu kim khí quý, đá quý, ngọc trai (Nghị Định số 355-TTg ngày 16-7-1958 của Thủ tướng Chính phủ)...
So với các văn bản pháp luật thời kỳ trước, các văn bản pháp luật thời kỳ này đã có bước phát triển đáng kể, cả về loại hình văn bản, kỹ thuật lập pháp và nội dung quy định. Từ chỗ chỉ với các quy định đơn giản dưới hình thức sắc lệnh, các nhà làm luật đã quy định về tội phạm kinh tế ở nhiều dạng văn bản khác nhau như sắc luật, thông tư, chỉ thị, pháp lệnh... Các nhà làm luật cũng chú ý xác định cụ thể các hành vi gây phương hại nền kinh tế bị coi là tội phạm và đường lối xử lý các tội phạm này.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do chiến tranh, song Nhà nước ta vẫn chú ý hoàn thiện pháp luật về quản lý kinh tế và hoàn thiện các quy định về các tội phạm về kinh tế. Các quy định về các tội phạm về kinh tế thời kỳ này khá chặt chẽ về mặt pháp lý và mang tính hiệu quả cao trong thực tiễn áp dụng. Hai văn bản có vai trò quan trọng thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với các tội phạm về kinh tế thời kỳ này là:
- Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21 - 10 - 1970;
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa (Pháp lệnh năm 1970) quy định về các tội phạm gây thiệt hại trực tiếp và gián tiếp đến tài sản. Việc xây dựng Pháp lệnh năm 1970 thể hiện kỹ thuật lập pháp tiến bộ đáng kể. Pháp lệnh năm 1970 được kết cấu thành 3 chương: chương I
- Nguyên tắc chung, chương II - Tội phạm và hình phạt và chương III - Điều khoản chung. Chính sách hình sự đối với tội phạm được thể hiện khá rõ nét. Pháp lệnh năm 1970 xác định mục đích của việc ban hành Pháp lệnh là “để bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng, bảo vệ nền văn hoá dân tộc, nâng cao đời sống của nhân dân, bảo đảm thắng lợi hoàn toàn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; để phát huy tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ, công nhân viên chức và toàn thể nhân dân, đề cao đạo đức xã hội chủ nghĩa và ý thức tôn trọng và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, động viên mọi người ra sức đấu tranh chống những hành vi xâm phạm tài sản đó”. Các nguyên tắc xử lý được xác định rõ ràng: “nghiêm trị bọn lưu manh chuyên nghiệp, bọn tái phạm, bọn phạm tội có tổ chức, bọn cầm đầu, bọn lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội, bọn gây thiết hại nặng; xử nhẹ hoặc miễn hình phạt cho những kẻ tự thú, thật thà hối cải, tố giác đồng bọn hoặc tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra”[49, tr.231].
Chương II Pháp lệnh năm 1970 quy định khá rõ ràng về các tội phạm và hình phạt cụ thể. Đáng lưu ý là một số hành vi xâm phạm TTQLKT cũng được quy định khá cụ thể trong Pháp lệnh. Điều 12 quy định về tội cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế tài chính gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa; Điều 13 quy định về tội vi phạm chế độ tem phiếu dùng vào việc phân phối tài sản xã hội chủ nghĩa.
Pháp lệnh năm 1970 đã chú ý xây dựng cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm tăng nặng với các tình tiết định khung tăng nặng và các khung hình phạt riêng có ý nghĩa phân hoá TNHS đối với các tội phạm cụ thể.