Các tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật trong sự so sánh với Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - 9


Khác với Quốc triều hình luật, BLHS quy định hình phạt tiền tại khoản 5 điều 138 với nội dung: “Người phạm tội có thể bị phạt tiền” [21]. Có nghĩa là đây không phải là hình phạt bắt buộc và người phạm tội ngoài việc chấp hành hình phạt theo các khoản 1, 2, 3, 4 thì còn có thể bị phạt từ năm triệu đến mười triệu. Tuy nhiên, trên thực tế tòa án các cấp rất ít áp dụng loại hình phạt này. Trong 05 năm (2010-2014), số vụ án bị xét xử về tội chiếm đoạt tài sản được Tòa án áp dụng hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung chỉ có 734 bị cáo trong tổng số 189.252 bị cáo đưa ra xét xử, chiếm tỷ lệ 0.38% [29]. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, việc tồn tại hình phạt tiền với tính chất là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, các tội xâm phạm sở hữu, với mục đích người phạm tội hướng tới là lợi nhuận thì biện pháp trừng trị có tính chất kinh tế đối với hành vi phạm tội của họ sẽ tước bỏ khả năng, cơ hội tái phạm tội của họ; tạo điều kiện để bản thân người phạm tội có khả năng tiếp tục lao động, khắc phục hậu quả của tội phạm. Đồng thời giúp nhà nước giảm chi phí trong công tác thi hành án phạt tù tại các trại giam [32, tr.25].

Ngoài ra, các tội xâm phạm sở hữu theo quy định của BLHS không phân biệt giới tính của đối tượng thực hiện hành vi. Vì vậy khung hình pháp áp dụng cho người phạm các tội xâm phạm sở hữu là nam nữ đều giống nhau. Quy định như vậy phù hợp với nguyên tắc dân chủ, bình đẳng không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo được đề cập trong Hiến pháp cũng như tại điều 3 BLHS năm 1999 về các nguyên tắc xử lý. Trong khi đó, một số điều luật về tội này Quốc triều hình luật thể hiện sự nhân đạo đối với người phụ nữ như: giảm hình phạt một bậc đối với phụ nữ phạm các tội xâm phạm sở hữu ở giai đoạn phạm tội chưa đạt hoặc phạm tội trộm cắp gà lợn, lúa mạ hay đày tớ gái ăn trộm của chủ được giảm tội. Ví dụ điều 450: “Kẻ lạ vào trong vườn người


ta, thì cũng xử tội biếm; đàn bà thì được giảm một bậc”; điều 441 quy đinh: “Đày tớ ăn trộm của chủ thì xử nặng hơn tội ăn trộm thường một bậc; đày tớ gái được giảm tội” [33].

Biện pháp tư pháp khác

Biện pháp bồi thường thiệt hại là nội dung cùng được quy định trong cả hai bộ luật: Quốc triều hình luật và BLHS hiện đại. Tất nhiên do hai thời điểm ban hành khác nhau, 2 giai đoạn phát triển hoàn toàn khác nhau của đất nước nên nội dung biện pháp bồi thường thiệt hại được quy định khác nhau trong hai bộ luật.

Quy định tại Bộ luật hình sự: “Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra” [21, Điều 42].

Theo đó, người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. Tòa án chỉ buộc người phạm tội phải trả lại tài sản đã bị chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, khi tài sản đó còn đúng giá trị khi người phạm tội chiếm đoạt, nếu tài sản đó đã bị hư hỏng thì buộc người phạm tội phải sửa chữa hoặc bồi thường cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Thực tiễn xét xử còn cho thấy, trong trường hợp, tài sản do người phạm tội chiếm đoạt nhưng lại bán một cách trái phép cho người khác và người mua không biết tài sản đó là tài sản bị chiếm đoạt. Sau khi mua, người mua đã cải tạo sửa chữa làm tăng giá trị của tài sản đó, thì Tòa án vẫn buộc người chiếm hữu bất hợp pháp (người mua nhầm phải của gian) phải trả lại tài sản bị chiếm đoạt cho chủ sở hữu có yêu cầu.

Vấn đề bồi thường thiệt hại trong Quốc triều hình luật được quy định

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.


tại rất nhiều điều luật trong đó có nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, mức bồi thường được quy định không thống nhất ở một mức nhất định mà được cụ thể hóa trong từng điều luật. Có điều luật quy định người phạm tội chỉ phải bồi thường một phần tang vật nhưng cũng có điều luật quy định người phạm tội phải bồi thường gấp đôi, thậm chí gấp giá trị của tang vật.

Các tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật trong sự so sánh với Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - 9

Ví dụ điều 428 quy định:

Ăn cướp mà lại hiếp dâm…..; ăn trộm mà lại hiếp dâm…; điền sản kẻ phạm tội đến trả cho nhà khổ chủ; điều 429 quy định: ….Giữa ban ngày ăn cắp vặt…thì phải bồi thường một phần tang vật…; điều 431: Ăn trộm những đồ thở trong lăng miếu và tượng thánh, áo mũ thờ, thì đều xử chém, điền sản bị tịch thu sung công; người giám thủ không biết để mất trộm, thì phải tội biếm..., và đều phải đền gấp ba lần những đồ hư nát ấy… [33].

Tương tự như luật hình sự hiện đại, Quốc triều hình luật quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về người phạm tội xâm phạm sở hữu; hình thức bồi thường được thực hiện bằng hình thức trả bằng tiền bồi thường tang vật hoặc điền sản của người phạm tội. Điều 28 quy định về tiền bồi thường tang vật:

Tiền bồi thường tang vật chia làm 2 bậc: bồi thường 2 lần (về tang vật của công) bồi thường 1 lần (về những tang vật các tội lặt vặt). Tội nặng thì bồi thường thêm 5 lần, 9 lần (nếu cố ý tái phạm) cộng với nguyên tang vật tịch thu vào nhau mà cùng phải tội, hay không có chủ. Phần bồi thường trả lại người chủ chia làm 10 phần, trả chủ 8 phần, cho quân y 2 phần này lại chia làm 10 phần, hình quan được 6 phần, ngục quan được 3 phần, nha lại lính tráng được 1 phần [33, tr.51].


Như vậy, tiền bồi thường tang vật và điền sản là những quy định phổ biến, tạo nên nét đắc sắc trong Quốc triều hình luật liên quan đến nhóm tội xâm phạm sở hữu. Việc quy định cụ thể, cố định mức bồi thường: một phần tang vật, gấp đôi tang vật, gấp ba tang vật…các nhà làm luật đã giúp cho việc xét xử trở nên rõ ràng, quan xử án không thể lạm quyền mà yêu cầu bị cáo bồi tưởng cao hoặc thấp hơn so với quy định của luật. Không những thế, quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại trong nhóm tội xâm phạm sở hữu của Quốc triều hình luật còn thể hiện sự trừng trị nghiêm khắc hơn đối với người phạm tội thông qua quy định tăng mức bồi thường thiệt hại so với giá trị thật của tang vật căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội (ở đây là cho quyền lợi của giai cấp địa chủ, phong kiến, các bậc hoàng thân quốc thích).

Ngoài ra, Quốc triều hình luật còn quy định một nội dung khác mà BLHS hiện đại không hề đề cập đến. Đó là quy định về hình thức khen thưởng cho người cáo giác hành vi chứa chấp người phạm các tội xâm phạm sở hữu trong các trang trại.“Những bậc vương công thế gia mà chứa chấp những quân trộm cướp trong trang trại làm nơi ẩn nấp của chúng thì phải phạt tiền 500 quan và tịch thu cả trang trại.……; thưởng cho người tố cáo một phần mười số ruộng đất của trang trại bị tịch thu…” [33, Điều 455].


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


Các tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật và BLHS hiện hành có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định. Điều này được xác định dựa trên một số tiêu chí như: chính sách hình sự, kỹ thuật lập pháp, tội phạm và hình phạt cũng như các biện phạm khác đối với các tội xâm phạm sở hữu.

1. Quốc triều hình luật do là bộ luật của triều đại phong kiến nên đã thể hiện sâu sắc nguyên tắc quân chủ chuyên chế - là công cụ hữu hiệu để trừng trị triệt để những kẻ xâm phạm đến chế độ phong kiến, đến vương quyền, đặc biệt là sự an toàn và lợi ích của triều đại, của bản thân nhà vua và của các quan chức cao cấp cùng họ hàng thân thuộc. Đến thời kỳ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên tắc quân chủ chuyên chế đã được thay thế bằng nguyên tắc dân chủ nhằm đảm bảo sự công bằng trong xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của mọi công dân – thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dù có sự khác biệt về chính sách hình sự kể trên, nhưng không thể phủ nhận rằng Quốc triều hình luật còn thể hiện được đầy đủ nội dung của các nguyên tắc pháp chế và nguyên tắc nhân đạo giống như luật hình sự hiện đại.

2. Do ảnh hưởng về mặt lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ, Quốc triều hình luật có nhiều hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, ở Quốc triều hình luật, vấn đề kế thừa, phát triển những giá trị pháp luật truyền thống của dân tộc đã, đang và sẽ là vấn đề được Nhà nước và các nhà nghiên cứu quan tâm, triển khai thực hiện, đặc biệt trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay và thực hiện công cuộc cải cách tư pháp. Những vấn đề nổi bật có thể kể đến như: Các kỹ thuật lập pháp tiến bộ về ban hành luật chi tiết thay vì luật khung, quy định chế tài cố định, phát huy hơn nữa tinh thần nhân đạo trong luật…

3. BLHS hiện hành đang ngày càng thể hiện những vướng mắc, thiếu sót khi được áp dụng thời điểm hiện tại. Những nhược điểm phổ biến như ban


hành các quy định có tính chất luật khung, quy định khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa trong một khung hình phạt quá rộng gây khó khăn trong việc xử lý minh bạch, chính xác tội phạm, tạo cơ sở pháp lý cho việc lạm quyền, xử lý tùy tiện, không thống nhất trong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Kế thừa những thành tựu của Quốc triều hình luật đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu, tác giả đề xuất một số vấn đề cần thay đổi nhằm sửa đổi bổ sung các quy định của nhóm tội này trong BLHS hiện hành.


KẾT LUẬN


1. Quốc triều hình luật là sản phẩm của một thời kỳ phát triển cực thịnh của chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam. Đây cũng là bộ luật xưa nhất còn lưu giữ được đầy đủ cho đến ngày nay, là một trong những luật quan trọng nhất của Việt Nam thời kỳ phong kiến. Nói đến Quốc triều hình luật người ta nghĩ ngay ngay đến một bộ luật có kỹ thuật lập pháp cao, nội dung phong phú, toàn diện với nhiều giá trị nổi bật trong lịch sử pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến. Quốc triều hình luật là bộ luật khẳng định được giá trị và vị thế của nó trong lịch sử hệ thống pháp luật của dân tộc và trên thế giới bới những giá trị tiến bộ của nó vượt trước thời đại bấy giờ, và mang tính nhân đạo nhân văn sâu sắc của người Việt Nam. Những giá trị đó được thế hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội.

2. Khi so sánh Quốc triều hình luật và BLHS hiện hành, chúng ta có thể thấy rằng nhiều vấn đề pháp lý của luật hình sự được để cập sâu rộng khác nhau trong Quốc triều hình luật như: chế định đồng phạm, vấn đề quyết định hình phạt, vấn đề bồi thường dân sự trong vụ án hình sự, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS… Điều này đã chứng tỏ Quốc triều hình luật là một bộ luật có giá trị xuyên suốt thời đại mà chúng ta không thể bỏ qua khi nghiên cứu để tiếp thu, lĩnh hội hoàn thiện pháp luật nói chung cũng như pháp luật hình sự nói riêng, trong đó có nhóm tội xâm phạm sở hữu.

3. Nghiên cứu nhóm tội xâm phạm sở hữu trong BLHS hiện hành, tác giả đã phân tích các khái niệm về nhóm tội xâm phạm sở hữu, từ đó đưa ra khái niệm khoa học về các tội này. Bên cạnh đó, luận văn còn làm rõ được lịch sử hình thành và phát triển của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình


sự hiện đại, đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu so với nhóm tội phạm khác. Từ đó tác giả chỉ ra được những thành tựu đã đạt được, những điểm mới tiến bộ của BLHS hiện hành so với luật hình sự các giai đoạn khác nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong từng giai đoạn, phù hợp với hoàn cảnh thực tế.

4. Không dừng lại ở đó, luận văn tiếp tục khai thác những điểm còn hạn chế, vướng mắc, không phù hợp trong quá trình áp dụng các tội xâm phạm sở hữu của BLHS hiện hành ở thời điểm hiện tại thông qua việc so sánh về chính sách hình sự, kỹ thuật lập pháp, nội dung của các tội xâm phạm sở hữu (tội phạm và hình phạt) giữa BLHS hiện hành và Quốc triều hình luật để rút ra được những mặt điểm tích cực và hạn chế của Quốc triều hình luật, những điểm tích cực cần được phát huy và những mặt hạn chế để không mắc phải.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 05/11/2023