Hội Nhập Và Hợp Tác Quốc Tế Về Bảo Vệ Môi Trường

40%...) là con số cần quan tâm. Nếu so sánh với tổng lượng nước sạch cung cấp tại thành phố Hà Nội hiện nay khoảng 1,5 triệu m3/ngày thì cứ 3m3 nước làm ra thì bị thất thoát 1m3. Nếu nhân với giá nước bình quân 5.300 đồng mỗi mét khối cho

500.000 mét khối nước thất thoát tại Hà Nội, số tiền nước thất thoát mỗi năm sẽ là một con số khổng lồ lên đến gần 1.000 tỉ đồng.

Các cộng đồng nghèo vẫn phải gánh chịu thiệt hại kinh tế, sức khỏe do thiếu nước. Ở những vùng rất khô hạn, số lượng người nghèo nông thôn ngày càng tăng và đó là những người sẽ coi trọng các quyền lợi và điều kiện tiếp cận nguồn nước cho sản xuất lương thực, chăn nuôi và các mục đích sinh hoạt hơn so với điều kiện chăm sóc sức khỏe ban đầu và giáo dục. Sự khan hiếm và cạnh tranh ngày càng tăng về nguồn nước là một mối đe dọa lớn đối với công cuộc giảm nghèo trong lâu dài. Để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, cần tăng cường đầu tư vào các dự án liên quan đến nước để phát triển nông thôn vì lợi ích của người nghèo.

Chương 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO CƠ CHẾ ĐẢM BẢO AN NINH NGUỒN NƯỚC VÀ QUYỀN TIẾP CẬN NƯỚC SẠCH CỦA NGƯỜI DÂN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG


3.1. Hội nhập và hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường

An ninh quốc gia thường đi kèm với tính bí mật và cạnh tranh cao, trong khi đó để giải quyết được các mối đe dọa về môi trường lại cần phải có các hành động minh bạch và hợp tác. Các chính sách về an ninh môi trường của Việt Nam cũng vậy, sẽ vừa phải cân nhắc tới nguyên tắc bí mật, vừa phải minh bạch để cùng huy động được tối đa sự tham gia trong giải quyết các xung đột môi trường.

Hội nhập quốc tế và khu vực là tất yếu – mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội và thúc đẩy phát triển nhiều tiềm năng của đất nước; song tất yếu cũng có những thách thức phải đối mặt trong nhiều lĩnh vực phát triển, trong đó có an ninh môi trường. Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã cam kết mở cửa thị trường dịch vụ môi trường ở 5 phân ngành, đó là: dịch vụ xử lý nước thải; dịch vụ xử lý rác thải; dịch vụ làm sạch khí thải; dịch vụ xử lý tiếng ổn; dịch vụ đánh giá tác động môi trường. Do vậy, hội nhập quốc tế đi cùng với phát triển dịch vụ môi trường là nhu cầu cấp thiết ở Việt Nam.

Hợp tác quốc tế về nhân quyền là một trong những ưu tiên của Việt Nam thời gian qua. Trong phạm vi khu vực, cùng các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam đã đóng góp tích cực trong việc thành lập Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR) và việc Tuyên bố Nhân quyền ASEAN đã được lãnh đạo cấp cao các nước ASEAN thông qua tháng 11/2012 sẽ tạo cơ sở bảo đảm, tăng cường hợp tác và bảo vệ nhân quyền ở khu vực, trong đó vấn đề môi trường cũng rất được quan tâm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

Với mục đích tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực phục vụ cho việc bảo đảm tốt hơn các quyền con người, Việt Nam chủ trương tiếp tục tăng cường hợp tác với tất cả các quốc gia, các cơ chế và tổ chức chuyên môn của Liên

hợp quốc có liên quan đến quyền con người; tham gia tích cực và có trách nhiệm vào công việc của Hội đồng Nhân quyền; thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ đối với các Công ước nhân quyền quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tăng cường hiệu quả các cơ chế đối thoại song phương thường kỳ.

An ninh nguồn nước và quyền tiếp cận nước sạch của người dân vùng đồng bằng sông Hồng - Thực trạng và giải pháp - 10

3.1.1. Hội nhập quốc tế về bảo vệ môi trường

Để đảm bảo hội nhập và hợp tác quốc tế về môi trường hiệu quả, Việt Nam cần phải tham gia các công ước quốc tế về môi trường cũng như sớm có chính sách thực thi các công ước hiệu quả. Việc tham gia và phê chuẩn các Công ước quốc tế sẽ góp phần đẩy nhanh sự hội nhập của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề liên quan tới việc nâng cao trách nhiệm tham gia công ước, thành lập đầu mối quốc gia để thống nhất theo dòi và quản lý thực hiện, cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia cho phù hợp nhằm thực hiện tốt các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường.

Tham gia vào các sáng kiến môi trường và hợp tác kinh tế quốc tế và khu vực trên nguyên tắc đảm bảo chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi, đặc biệt tranh thủ sự hợp tác của các nước trong khu vực biển Đông.

Đẩy mạnh thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho các hoạt động bảo vệ môi trường bằng cách triển khai đồng bộ.

Cần chủ động giải quyết các vấn đề môi trường có liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, đàm phán hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực: WTO, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và các Hiệp định thương mại song phương và đa phương; duy trì và phát triển quan hệ đối tác với các Hiệp hội mà Việt Nam là thành viên (ASEAN, ASEM…) và các đối tác khác.

Với mỗi lĩnh vực, Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ tiếp tục phải có những định hướng chính sách hội nhập phù hợp, để đảm bảo cho mục tiêu phát triển bền vững quốc gia và sự gắn kết phát triển hài hòa lợi ích chung với các nước. Điều đó đòi hỏi:

- Việt Nam cần phải thực thi nghiêm chỉnh các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Hiện nay Việt Nam tham gia khoảng hơn 15 Công ước quốc tế về môi trường.

- Chính Phủ nên xem xét các Công ước quốc tế mà Việt Nam có thể tham gia thêm: như Công ước quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu, 1969; Công ước về phòng ngừa ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác, 1971; Hiệp định ASEAN về Bảo tồn thiên nhiên và các tài nguyên thiên nhiên, 1985; Công ước về sử dụng các sông ngòi quốc tế không phải giao thông thủy...

- Chính Phủ nên cho nghiên cứu và rà soát đối chiếu lại một cách có hệ thống các công ước quốc tế với các luật pháp của quốc tế để có thể phát hiện ra những gì còn chưa khớp, thiếu, hoặc mâu thuẫn; để có các biện pháp xây dựng, bổ sung hoàn chỉnh hệ thống luật trong nước phù hợp với các công ước quốc tế, thông lệ quốc tế và lợi ích quốc gia.

- Chính Phủ cũng cần xây dựng nhanh chóng khả năng quốc gia về việc thực hiện các công ước quốc tế, cũng như việc theo dòi, thúc đẩy và kiểm soát thực hiện.

3.1.2. Hợp tác quốc tế trong việc sử dụng nguồn nước trên các lưu vực sông quốc tế và bảo đảm thực hiện quyền

- Tăng cường hợp tác chia sẻ, bảo đảm công bằng, hợp lý trong khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước, phát triển tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra ở hệ thống sông Hồng nói riêng, các sông, lưu vực sông quốc tế tại Việt Nam nói chung trên nguyên tắc: bảo đảm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia; đảm bảo tính hệ thống của lưu vực sông, không chia cắt theo địa giới hành chính, đồng thời bảo đảm diễn thế tự nhiên của các hệ sinh thuỷ, các thuỷ vực và hệ sinh thái, đặc biệt là các loài thuỷ sản quý, hiếm, có giá trị khoa học, kinh tế; bảo tồn và phát triển tính đa dạng, độc đáo của hệ sinh thái thuỷ sinh tại lưu vực sông Hồng và các lưu vực sông khác trển lãnh thổ Việt Nam.

- Mặc dù Việt Nam có 9 lưu vực sông quốc tế (trực tiếp với Trung Quốc, Lào và Campuchia), nhưng đến nay chỉ có một cơ cấu hợp tác sông quốc tế được hình thành đó là Ủy hội sông Mê-kông quốc tế (MRC) với 04 thành viên: Lào, Thái Lan và Campuchia, Việt Nam. MRC cũng là tổ chức lưu vực sông cấp vùng duy nhất ở Đông Nam Á. Chính vì tầm quan trọng của việc hợp tác quốc tế trong việc phát triển bền vững tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan 17. Với vị trí, vai trò của hệ

thống sông Hồng trong phát triển kinh tế - xã hội ở đồng bằng sông Hồng nói riêng, Bắc Bộ nói chung. Nhu cầu đặt ra là cần cơ chế hợp tác quốc tế để cùng nhau khai thác, chia sẻ các lợi ích, giá trị của sông Hồng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Qua đó, huy động tối đa mọi nguồn lực đảm bảo, duy trì an ninh nguồn nước cũng như việc cung cấp nước sạch cho người dân vùng đồng bằng sông Hồng. Thỏa thuận ký với Trung Quốc phải chú trọng vào tính minh bạch, trao đổi thông tin, bình đẳng về lợi ích, giải quyết các vấn đề tranh chấp, kiểm soát ô nhiễm, các dự án và cam kết chung nhằm ngăn chặn những hành động làm nguy hại đến tài nguyên nước.

- Tạo điều kiện và tăng cường những cuộc đối thoại có tính chất xây dựng và hợp tác chặt chẽ các thể chế về nước sẽ hỗ trợ ngăn chặn nguy cơ nảy sinh tranh chấp nguồn nước chung giữa hai quốc gia và qua đó có thể giúp cải thiện lưu lượng nước cũng như chất lượng nguồn nước tại hạ lưu.

- Trong Nghị quyết tuyên bố quyền tiếp cận nước sạch và hợp vệ sinh là một quyền con người cơ bản đứng độc lập (2010) đã kêu gọi các quốc gia và các tổ chức quốc tế hợp tác toàn cầu để cung cấp các quỹ và công nghệ cho những nước đang phát triển để tăng cường các nỗ lực nhằm cung cấp nước và điều kiện vệ sinh an toàn, sạch, có thể tiếp cận và giá cả phải chăng cho tất cả người dân.

3.2. Giải pháp quản lý, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên nước vùng đồng bằng sông Hồng từ cách tiếp cận quyền với nước sạch

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống thể chế đảm bảo quyền con người đối với môi trường

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về tài nguyên nước sao cho phù hợp với các quy định pháp luật tại các ngành luật khác có liên quan. Các quy định pháp lý, các chính sách và các chiến lược hiện có cần được xem xét lại để đảm bảo rằng chúng phù hợp với các nghĩa vụ và quyền lợi phát sinh từ quyền sử dụng nước cả ở cấp độ quốc gia và cả ở cấp độ người dân.

Về mặt pháp lý, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 chưa giải quyết được chính là việc xác định vị trí của đạo luật này trong hệ thống pháp luật và xử lý mối quan hệ giữa đạo luật này với các đạo luật có liên quan trong đó có các đạo luật về tài nguyên (Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản v.v.) và các đạo

luật có liên quan khác (chẳng hạn như Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp v.v.). Thực tế quá trình áp dụng Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 cũng cho thấy, do thiếu quy phạm xử lý mối quan hệ giữa Luật Bảo vệ môi trường và các đạo luật có liên quan mà trong trường hợp có sự chồng lấn, mâu thuẫn giữa các quy định trong Luật Bảo vệ môi trường (hoặc các văn bản hướng dẫn luật này) với các quy định trong các đạo luật khác (hoặc các văn bản hướng dẫn các đạo luật này) thì việc chọn quy phạm nào để áp dụng cho hợp lý có khá nhiều lúng túng, vướng mắc. Yêu cầu đặt ra là:

+ Rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ môi trường 2005 theo hướng mở rộng hơn về phạm vi điều chỉnh. Rà soát, sửa đổi các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp trách nhiệm của các cơ quan quản lý môi trường cấp trung ương và địa phương; bổ sung các quy định về bảo vệ môi trường các lưu vực sông, làng nghề, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp; môi trường nôn thôn, miền núi, biển và hải đảo; các quy định về quản lý chất thải, phế liệu, sản phẩm thải bỏ; hoàn thiện các công cụ kinh tế và xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường; xem xét việc luật hóa các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu.

+ Cần bổ sung các quy định về sự tham gia của cộng đồng, cung cấp và phổ biến thông tin trong quản lý và bảo vệ môi trường nước vào các văn bản dưới Luật, hướng dẫn thi hành Luật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

+ Cần xem xét, bổ sung các văn bản hướng dẫn quy định cụ thể đối với công tác điều tra, thống kê và đánh giá nguồn thải, đặc biệt là nguồn thải tại các lưu vực sông.

+ Tiếp tục rà soát, xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Xây dựng, ban hành các quy chuẩn cho một số lĩnh vực sản xuất đặc thù và sản xuất làng nghề.

- Quyền được sống trong môi trường trong lành đã trở thành quyền Hiến định trong Hiến pháp hiện hành, và vẫn được tiếp tục thừa nhận, mở rộng trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 và sắp tới là Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 (hiệu lực từ 01/01/2015) nhưng nguyên tắc này vẫn không được ghi nhận thành nguyên tắc riêng mà được thể hiện qua các nguyên tắc khác. Hơn nữa, để bảo vệ

quyền được sống trong môi trường trong lành có hiệu quả, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 rất đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác trong hoạt động bảo vệ môi trường qua đó góp phần phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền được sống trong môi trường trong lành ở nước ta hiện nay dưới góc độ luật định và thực tiễn cho thấy vẫn chưa thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ quyền mà mới chỉ ở mức độ ghi nhận bảo đảm. Có thể dễ dàng nhận thấy qua thực trạng môi trường nước, đất, không khí…vẫn tiếp tục bị xuống cấp nhanh, với mức độ nghiêm trọng đáng báo động.

+ Chính vì thế cần rà soát, đánh giá lại hiện trạng pháp luật hiện hành, bổ sung, hoàn thiện theo hướng lồng ghép cách tiếp cận quyền con người vào việc hoạch định chính sách và pháp luật có liên quan tới bảo vệ môi trường để triển khai quyền được sống trong môi trường trong lành, trong đó có quyền sử dụng nước sạch của người dân, qua đó sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của Nhà nước thực hiện được đồng thời chức năng bảo vệ bảo đảm các quyền con người.

+ Nghiên cứu bổ sung và quy định chi tiết trong các văn bản luật và dưới luật về quyền của công dân, các tổ chức xã hội, tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần chúng như mật trận, thanh niên, phụ nữ, nông dân… được tham gia vào việc ban hành các quyết định, chính sách có liên quan tới môi trường và giám sát bảo vệ môi trường; quy định cụ thể hơn cả về trình tự, thủ tục liên quan tới quyền của cá nhân, công dân được tiếp cận thông tin về môi trường và trách nhiệm của Nhà nước, doanh nghiệp cung cấp và công khai thông tin, tác hại ảnh hướng đến môi trường; quy định cụ thể về trình tự, thủ tục khởi kiện, trình tự khiếu nại đối với các quyết định, chính sách có tác động đến môi trường; quyền được đền bù thiệt hại, đánh giá tác động, thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường, tác động/ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe, quyền lợi về vật chất, tinh thần của cá nhân, công dân và của cộng đồng dân cư.

- Xây dựng khung pháp lý xử phạt các hành vi xâm hại tài nguyên nước, gây ô nhiễm nguồn nước… Các chế tài hành chính, dân sự được quy định chi tiết, cụ thể tại các văn bản pháp luật có liên quan như Bộ luật dân sự năm 2005, Luật

xử lý vi phạm hành chính năm 2012, nghị định 117/2009/NĐ-CP của Chính phủ ban nhành ngày 31/12/2009 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường…Nhưng chưa có hành vi nào quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 Chương XVII – Các tội phạm về môi trường bị khởi tố, truy tố, xét xử. Có thể nói các chế tài hình sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường vẫn chỉ nằm trên giấy. Cần sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn việc thi hành 10 điều luật của Chương XVII Bộ luật Hình sự theo hướng quy định rò ranh giới rò ràng giữa trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự. Tuy còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng cần xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường để đảm bảo tính nghiêm khắc của biện pháp xử phạt, tăng cường tính răn đe, phòng ngừa đối với loại tội phạm này

- Củng cố khung quản lý tổng hợp tài nguyên nước ở cấp quốc gia, bao gồm các chính sách và quy định luật pháp liên quan đến bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, các chiến lược quốc gia và kế hoạch thực hiện, khung quy định về các quyền đối với nước, và các quy hoạch lưu vực sông để đưa ra những nguyên tắc phân bổ nước, xác định rò hơn các quyền của người sử dụng nước thông qua một hệ thống cấp phép.

3.2.2. Tăng cường phối hợp, phân cấp, nâng cao năng lực các cơ quan quản lý đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng tài nguyên nước

- Củng cố vai trò của Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước, thiết lập các mô hình thể chế phù hợp cho việc quản lý các lưu vực sông.

- Cần rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, ngành có liên quan để có những biện pháp cụ thể khắc phục những chồng chéo trong phân công nhiệm vụ quản lý và bảo vệ môi trường nước. Một trong những giải pháp cần được xem xét, đó là việc kiện toàn mô hình tổ chức và hoạt động của các Ủy ban bảo vệ môi trường lưu vực sông.

Trước các thách thức về quản lý sử dụng và phát triển bền vững tài nguyên nước, sau khi Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Tài nguyên nước năm 1998, Việt

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 25/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí