Một Số Khuyến Nghị Nhằm Đảm Bảo An Toàn Vốn Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam


nhu cầu của các tổ chức tín dụng. Nâng cao chất lượng báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các TCTD, đảm bảo thông tin trên các báo cáo phải đầy đủ, chính xác, thông tin trên báo cáo phải bao gồm cả thông tin tài chính và thông tin phi tài chính như cơ cấu sở hữu, hoạt động quản trị, điều hành của TCTD.

Thứ sáu, đối với hoạt động thanh tra giám sát

Tăng cường năng hiệu quả hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng của NHNN. Mục tiêu đến cuối năm 2025, thực hiện thanh tra giám sát ngân hàng theo các nguyên tắc giám sát ngân hàng của Basel II và phù hợp với thực tế tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, tăng tính công khai minh bạch, tăng trách nhiệm trong quản trị và hoạt động của các TCTD.

Thứ bảy, phát triển hệ thống NHTM theo hướng đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng.

Định hướng các NHTM phát triển mô hình kinh doanh theo hướng đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Đặc biệt, phát triển các sản phẩm dịch vụ phi tín dụng. Cải thiện chất lượng, đảm bảo an toàn trong việc cung ứng các sản phảm dịch vụ ngân hàng điện tử. Tập trung nguồn lực vào các hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng, thoái vốn đầu tư vào các ngành khác, lĩnh vực có nhiều rủi ro. Khuyến khích các NHTM ưu tiên cấp tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng chủ đạo của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế.

Các TCTD chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với giai đoạn mới trong đó hoạch định chiến lược phát triển dịch vụ rõ ràng chú trọng phát triển các kênh cung ứng dịch vụ hiện đại, ứng dụng công nghệ số, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng phát triển mạnh các kênh dịch vụ tín dụng nhằm tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng và cam kết tham gia tích cực hiệu quả vào việc thực thi tài chính toàn diện.

5.2. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo an toàn vốn đối với các ngân hàng thương mại tại Việt Nam

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, trong số 15 biến vi mô và vĩ mô được xem xét có 11 biến được kết luận là nhân tố ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê tới an toàn vốn của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008-2017. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực nghiệm, tác giả đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm đảm bảo an toàn vốn đối với các NHTM Việt Nam.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

5.2.1. Đối với các ngân hàng thương mại

5.2.1.1. Tăng vốn tự có

Các nhân tố tác động tới an toàn vốn của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 17

Lý do đề xuất giải pháp:

Thứ nhất, theo đánh giá của NHNN khi thực hiện dự thảo thông tư 41, tỷ lệ CAR tính theo Basel II giảm khoảng 25% - 30% so với cách tính CAR theo thông tư

36. Theo cách tính CAR thì vốn cấp 1 và vốn cấp 2 của các NHTM không thay đổi nhiều so với cách tính mới, tuy nhiên theo cách tính mới thì tổng tài sản có rủi ro lại tăng mạnh dẫn đến CAR theo cách tính mới giảm nhiều so với thông tư 36.

Thứ hai, phân tích thực trạng NHTM Việt Nam ở chương 3 cho thấy, quy mô vốn tự có của các NHTM Việt Nam liên tục tăng trưởng trong giai đoạn nghiên cứu, tuy nhiên so với các nước trong khu vực thì quy mô vốn tự có của NHTM Việt Nam vẫn ở mức thấp.

Thứ ba, căn cứ vào kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ đòn bẩy có tương quan nghịch với an toàn vốn của các NHTM Việt Nam. Nghĩa là những ngân hàng có tỷ lệ vốn vay cao thì mức độ rủi ro cao hơn do đó tỷ lệ an toàn vốn thấp hơn.

Chính vì vậy, tăng vốn là một trong giải pháp quan trọng đối với các NHTM Việt Nam hiện nay để đảm bảo thực hiện áp dụng Basel II trong thời gian tới.

Biện pháp thực hiện:

(i) Giữ lại lợi nhuận

(ii) Phát hành cổ phiếu thường mới

(iii) Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu

(iv) Mua bán sáp nhập

Kinh nghiệm của 10 NHTM thí điểm cho thấy cần phải tăng vốn tự có để thực hiện Basel II bằng cách: (i) Giữ lại lợi nhuận (ví dụ ACB năm 2016 tăng vốn bằng cách chia cổ tức bằng cổ phiếu, tổng số vốn tăng thêm là 896 tỷ, nhờ đó vốn điều lệ tăng từ 9.377 tỷ đồng lên 10.273 tỷ đồng); (ii) Phát hành cổ phiếu (ví dụ MB năm 2015 phát hành cổ phiếu giúp tăng vốn điều lệ lên 16.000 tỷ đồng tăng 38% so với năm 2014; VCB tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành cổ phiếu); (iii) mua bán sáp nhập. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, tăng vốn bằng cách giữ lại lợi nhuận.

Phần phân tích thực trạng về khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam cho thấy mặc dù khả năng sinh lời của các ngân hàng ở mức thấp so với các nước trong khu vực và so với chuẩn quốc tế nhưng khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam có


xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Đó là điều kiện thuận lợi để các NHTM Việt Nam có thể tăng vốn tự có bằng cách giữ lại lợi nhuận. Để giải pháp này thực sự có hiệu quả các ngân hàng cần phải nâng cao khả năng sinh lời thông qua việc nâng cao hiệu quả hoạt động: giảm nợ xấu để tăng thu nhập lãi, tiết kiệm chi phí hoạt động, tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ, cung cấp các dịch vụ tiện ích cho khách hàng.

Thứ hai, phát hành cổ phiếu thường để tăng vốn điều lệ.

Việc tăng vốn tự có bằng cách giữ lại lợi nhuận phụ thuộc vào mức lợi nhuận mà ngân hàng có được, do đo có thể không đáp ứng đủ nhu cầu tăng vốn tự có của ngân hàng. Do đó, để tăng vốn các ngân hàng có thể phát hành cổ phiếu thường để thu hút vốn từ các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài: phát hành cổ phiếu thường mới, chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường (như trường hợp của TCB, VPB). Tuy nhiên, để tăng vốn thành công theo cách này thì giá cổ phiếu NHTM trong thời gian phát hành tăng, kết quả kinh doanh khả quan, tình hình tài chính lành mạnh.

Việc phát hành cổ phiếu thường mới sẽ ảnh hưởng tới lợi ích của các cổ đông hiện tại trong ngắn hạn. Chính vì vậy, ngân hàng cần có sự cân nhắc trong việc phát hành cổ phiếu thường để tăng vốn. (Ví dụ trường hợp của TCB, ban đầu dự kiến phát hành cổ phiếu thu hút 5.000 tỷ đồng chia thành 2 đợt, đợt 1 đã phát hành thành công 700 tỷ đồng tuy nhiên ngân hàng này không phát hành tiếp cổ phiếu đợt 2 như dự kiến ban đầu ra công chúng để huy động 4.300 tỷ đồng do lo ngại ảnh hưởng tới lợi ích của cổ đông hiện tại). Ngoài ra việc huy động vốn từ nhà đầu từ nước ngoài có giới hạn nhất định, theo quy định hiện tại nhà đầu tư nước ngoài không được nắm giữ quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng

Thứ ba, tăng vốn tự có bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành trái phiếu.

Trong thời gian vừa qua để tăng vốn tự có một số NHTM Việt Nam đã thực hiện phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành trái phiếu trong nước và trên thị trường quốc tế như: VCB và ACB phát hành trái phiếu với kỳ hạn 10 năm vào tháng 12-2016; Sacombank và Nam Á phát hành chứng chỉ tiền gửi với kỳ hạn 7 năm vào tháng 2, tháng 3 năm 2017. Tuy nhiên, cách này chỉ phù hợp với các NHTM có uy tín và năng lực tài chính tốt do chi phí phát hành trái phiếu cao.

Tăng vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành trái phiếu cũng có giới hạn nhất định vì liên quan đến vốn cấp 2, theo quy định vốn cấp 2 không được quá 100% vốn cấp 1.


Thứ tư, tăng vốn tự có thông qua hoạt động mua bán sáp nhập.

Để đáp ứng yêu cầu về việc thực hiện Basel II, các NHTM cần phải tăng vốn bằng cách giữ lại lợi nhuận, phát hành cổ phiếu thường mới, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu... Tuy nhiên, việc thực hiện các giải pháp này là vô cùng khó khăn đối với các ngân hàng yếu kém. Chính vì vậy, giải pháp đối với các ngân hàng này là thực hiện mua bán sáp nhập với các ngân hàng khác.

Mua bán sáp nhập là một trong giải pháp được các NHTM Việt Nam thực hiện trong quá trình tái cơ cấu hệ thống TCTD nhằm mục tiêu: (i) giai đoạn 1 (2011-2015) xử lý các ngân hàng yếu kém và giai đoạn 2 (2016-2020) ổn định hệ thống, đảm bảo an toàn và lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. NHNN khuyến khích các NHTM, đặc biệt là các ngân hàng yếu kém thực hiện mua bán sáp nhập trên tinh thần tự nguyện. Theo đánh giá của Nguyễn Hồng Sơn và cộng sự (2016), hoạt động mua bán sáp nhập của các NHTM Việt Nam trong thời gian qua (2011-2016) đã tạo những chuyển biến tích cực đối với hệ thống ngân hàng: tăng trưởng về quy mô tài sản, vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu, mạng lưới chi nhánh trải rộng, số lượng khách hàng, sản phẩm đa dạng, nguồn nhân lực mạnh hơn.

Bản chất của hoạt động mua bán sáp nhập là nhằm mục kinh tế (tạo ra giá trị cộng hưởng sau khi thâu tóm sáp nhập) và mục tiêu phi kinh tế (thoả mãn lợi ích của bản thân các nhà quản trị). Tuy nhiên, hoạt động mua bán sáp nhập ở Việt Nam chưa thực sự mang tính thị trường (Nguyễn Thị Minh Huệ và Tăng Thị Phúc, 2016).

Do đó, để hoạt động mua bán sáp nhập có hiệu quả, các ngân hàng phải thị trường hoá hoạt động mua bán sáp nhập. Đặc biệt đối với các ngân hàng lớn cần phải coi hoạt động mua bán sáp nhập là chiến lược kinh doanh của ngân hàng.

Tóm lại, tăng vốn tự có là giải pháp cần thiết để đảm bảo thực hiện an toàn vốn theo Basel II. Tuy nhiên, mỗi giải pháp tăng vốn tự có lại có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Do vậy, các ngân hàng cần xây dựng kế hoạch tăng vốn phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngân hàng để đạt hiệu quả cao nhất.

5.2.1.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động

Lý do đề xuất giải pháp

Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng sinh lời của các NHTM (ROE) tương quan thuận với CAR. Có nghĩa là hoạt động của ngân hàng càng có hiệu quả, rủi ro ở mức thấp do đó các ngân hàng khả năng tăng vốn, tăng CAR ở mức cao. Bởi các NHTM dễ dàng duy trì hoặc tăng vốn chủ sở hữu khi thu nhập cao. Chính vì vậy, nâng


cao hiệu quả hoạt động để tăng thu nhập là giải pháp quan trọng đối với các NHTM Việt Nam hiện nay, khi mà khả năng sinh lời của các NHTM vẫn còn ở mức thấp.

Biện pháp thực hiện

(i) Ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động quản lý và cung ứng dịch vụ

(ii) Nâng cao năng lực quản trị

(iii) Nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên ngân hàng

Cụ thể thực hiện các giải pháp như sau:

Thứ nhất, ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động quản lý và cung ứng dịch vụ.

Trên thực tế, trong thời gian vừa qua các NHTM Việt Nam đã từng bước ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động ngân hàng tuy nhiên vẫn chưa theo kịp với tốc độ phát triển của thế giới. Các NHTM Việt Nam mới chủ yếu cung cấp các sản phẩm ứng dụng công nghệ đơn giản như SMS banking, mobile banking, internet banking. Các dịch vụ ngân hàng còn thiếu tính đa dạng.

Phần phân tích thực trạng về khả năng sinh lời của HTNH Việt Nam cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn tới khả năng sinh lời của các NHTM trong giai đoạn nghiên cứu ở mức thấp là do chi phí hoạt động ngoài lãi của các NHTM Việt Nam khá cao khoảng, chiếm trung bình khoảng 60% doanh thu hoạt động của ngân hàng. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực (Thái Lan 44%, Singapore 38%). Nguyên nhân dẫn tới chi phí hoạt động ngoài lãi của các NHTM Việt Nam tăng là do các ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động (tăng số lượng chi nhánh, phòng giao dịch) và cải thiện dịch vụ ngân hàng.

Do đó, ứng dụng công nghệ trong việc cung ứng dịch vụ một cách thuận tiện cho khách hàng không đòi hỏi các ngân hàng phải phát triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch từ đó giúp cho ngân hàng giảm chi phí đồng thời vẫn đảm bảo hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ.

Việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động quản lý, giúp NHTM kiểm soát các hoạt động của ngân hàng đặc biệt là các hoạt động quản lý rủi ro một cách dễ dàng, thuận tiện, chính xác. Tuy nhiên, muốn ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động quản lý ngân hàng cần có sự đầu tư vào công nghệ và xây dựng hệ thống thông tin.

Đồng thời, NHTM cần cung ứng các dịch vụ ngân hàng hiện đại bằng cách đa


dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, ngày càng hoàn thiện tính năng của các sản phẩm mà ngân hàng cung ứng nhằm đảm bảo cung ứng cho khách hàng những sản phẩm tiện lợi đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Các NHTM Việt Nam cần hướng mục tiêu phát triển ngân hàng thành ngân hàng số, ứng dụng các thiết bị thông minh vào các giao dịch ngân hàng.

“Số lượng người sử dụng internet và các thiết bị thông minh ở Việt Nam tăng khá nhanh so với các quốc gia trong khu vực ASEAN, tuy nhiên tỷ lệ khách hàng sử dụng internet cho giao dịch ngân hàng mới chỉ khoảng 19%”, thanh toán tiền mặt vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động thanh toán của người dân ( Lê Công, 2016). Chính vì vậy đây là cơ hội để các NHTM Việt Nam thực hiện thành công ngân hàng số.

Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị của các NHTM.

Năng lực quản trị của các NHTM là yếu tố quan trọng đảm bảo cho ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh và hiệu quả tăng khả năng sinh lời. Bộ máy quản trị phù hợp giúp NHTM nâng cao năng lực quản trị và giảm thiểu chi phí hoạt động cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Trong thời gian tới khi Việt Nam áp dụng Basel II trong toàn hệ thống ngân hàng, càng đòi hỏi các NHTM xây dựng cấu trúc quản trị phù hợp theo Basel II. Đặc biệt là xây dựng mô hình quản trị rủi ro.

Thứ ba, nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên ngân hàng.

Năng lực của đội ngũ nhân nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của các NHTM. Các quy định trong hoạt động ngân hàng ngày càng chặt chẽ, và hướng tới các chuẩn mực quốc tế, hoạt động ngân hàng ngày càng ứng dụng nhiều công nghệ hiện đại do đó đòi hỏi trình độ của đội ngũ nhân viên ngân hàng ngày càng nâng cao. Chính vì vậy, các NHTM cần phải có kế hoạch bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu đổi mới của ngân hàng.

5.2.1.3. Xử lý nợ xấu và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng

Lý do đề xuất giải pháp

Vốn mục tiêu của các NHTM ảnh hưởng đáng kể bởi rủi ro, các ngân hàng cố gắng tăng vốn khi rủi ro cao hơn và ngược lại. Mối quan hệ này áp dụng cho cả các ngân hàng có mức vốn thấp và mức vốn cao (Shrieves và Dahl, 1992). Tuy nhiên, do sự khác biệt trong nhận thức về rủi ro của cơ quan giám sát và ngân hàng có thể khiến cho mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ lệ an toàn vốn là tiêu cực. Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy:

- Nợ xấu có tương quan nghịch với an toàn vốn của ngân hàng. Do đó, để tăng


khả năng an toàn vốn, các NHTM cần phải có giải pháp hạn chế, ngăn ngừa và giảm nợ xấu.

- Dự phòng rủi ro tín dụng có tương quan thuận với an toàn vốn của ngân hàng. Nghĩa là khi dự phòng rủi ro tín dụng tăng, ngân hàng có thêm nhiều quỹ để bù đắp tổn thất do đó, tăng khả năng an toàn đối với ngân hàng.

- Nợ xấu bán cho VAMC có tương quan thuận với an toàn vốn của ngân hàng. Bán nợ xấu cho VAMC là một trong những giải pháp mà các NHTM Việt Nam đã và đang thực hiện để giảm nợ xấu trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Nhờ đó giúp cho ngân hàng tăng khả năng an toàn vốn.

Đồng thời, trong chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2030, nhiệm vụ đặt ra đối với HTNH Việt nam là phải xử lý triệt để các khoản nợ xấu. Việc xử lý các khoản nợ xấu có thể bằng nhiều cách khác nhau như: Sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng, bán nợ cho VAMC...

Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất giải pháp xử lý nợ xấu và trích lập dự phòng rủi ro giúp các NHTM Việt Nam đảm bảo an toàn vốn.

Biện pháp thực hiện

(i) Ngăn chặn, hạn chế nợ xấu nội và ngoại bảng

(ii) Tăng cường xử lý nợ xấu triệt để

(iii) Trích lập dự phòng phù hợp với mức độ rủi ro của các khoản cho vay

Thứ nhất, ngăn chặn và hạn chế các khoản nợ xấu nội và ngoại bảng.

Ngăn chặn và hạn chế nợ xấu là giải pháp quan trọng giúp các NHTM hạn chế rủi ro và tổn thất có thể xảy ra đối với hoạt động tín dụng. Cụ thể, để tránh các khoản nợ xấu phát sinh thêm, các NHTM cần ngăn chặn nợ xấu ngay từ khâu thẩm định tín dụng bằng cách nâng cao chất lượng thẩm định. Muốn vậy, ngân hàng cần có đội ngũ nhân viên có năng lực, trình độ, có đạo đức nghề nghiệp.

Đặc biệt ngân hàng phải xây dựng hệ thống thông tin khách hàng có đầy đủ thông tin với chất lượng thông tin tốt nhất đảm bảo cho việc phát hiện cũng như dự báo rủi ro từ phía khách hàng, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng. Để có hệ thống thông tin khách hàng tốt ngoài khả năng thu thập thông tin của ngân hàng còn phụ thuộc vào chất lượng thông tin và tính minh bạch thông tin của khách hàng.

Đồng thời, ngân hàng cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát khoản cho vay phát hiện kịp thời những khoản nợ có nguy cơ rủi ro cao để có giải pháp xử lý kịp thời, phù hợp.


Thứ hai, tăng cường xử lý nợ xấu triệt để.

Với những khoản nợ xấu đã phát sinh, NHTM cần chủ động xử lý, hạn chế mức thấp nhất tổn thất có thể xảy ra đảm bảo an toàn lành mạnh cho hoạt động ngân hàng. Hiện tại, các NHTM Việt Nam đang chú trọng vào giải pháp xử lý nợ xấu bằng cách bán nợ xấu cho VAMC. Nhờ đó, sẽ giúp các NHTM giảm được rủi ro. Điều này cũng được chứng minh từ kết quả nghiên cứu. Cụ thể, kết quả nghiên cứu cho thấy nợ xấu bán cho VAMC có tương quan thuận với an toàn vốn của các NHTM. Nghĩa là, NHTM bán nợ xấu cho VAMC sẽ tác động làm giảm nợ xấu trên bảng cân đối kế toán của các ngàng do đó tác động trực tiếp làm giảm tài sản điều chỉnh rủi ro khi tính CAR, nhờ đó làm tăng mức độ an toàn vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mặc dù có giúp các NHTM giảm nợ xấu, đặc biệt là nợ xấu trên bảng cân đối kế toán nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro và vẫn chưa xử lý tận gốc của nợ xấu, chưa xử lý nợ xấu dựa trên nguyên tắc thị trường.

Chính vì vậy, các NHTM cần xác định vai trò chủ đạo, chủ động của mình trong việc xử lý nợ xấu. Ngoài việc bán nợ xấu cho VAMC, các NHTM cần phải đánh giá khả năng phục hồi, tồn tại và phát triển của khách hàng vay vốn, doanh nghiệp để có biện pháp xử lý phù hợp. Đối với các doanh nghiệp có khả năng phục hồi, tồn tại và phát triển NHTM có thể có thể xử lý các khoản nợ xấu bằng: (i) chuyển đổi nợ gốc thành trái phiếu trung dài hạn giúp các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn; (ii) chuyển nợ xấu thành vốn góp, vốn cổ phần để đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua thời kỳ giai đoạn.

Thứ ba, xác định mức trích lập dự phòng phù hợp với chất lượng khoản cho vay.

Theo quy định của NHNN các NHTM phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo tỷ lệ quy định dựa trên quy mô và chất lượng tín dụng. Tỷ lệ trích lập dự phòng theo định là mức trích lập tối thiểu buộc các NHTM phải tuân thủ. Trong trường hợp nếu các NHTM đánh giá khoản tín dụng có nguy cơ rủi ro cao hơn các NHTM có thể trích lập nhiều hơn mức quy định.

Bởi, dự phòng rủi ro tín dụng là quỹ dùng để bù đắp tổn thất khi xảy ra rủi ro tín dụng. Việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo quy định là một biện pháp mà cơ quan quản lý yêu cầu đối với các NHTM nhằm bù đắp tổn thất khi xảy ra rủi ro. Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng là một trong biện pháp đảm bảo an toàn và lành mạnh đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Khi các khoản cho vay được phân chia vào các nhóm nợ phù hợp với mức độ rủi ro của khoản cho vay thì dự phòng rủi ro tín dụng có khả năng bù đắp tốt nhất khi xảy ra tổn thất.

Bên cạnh đó, khi xác định giá trị tổng tài sản có rủi ro để tính CAR, khoản trích

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/11/2022