Tổng Hợp Một Số Nghiên Cứu Trên Thế Giới Về Đề Tài Cltt Bctc


3. Câu hỏi nghiên cứu

Từ việc đề ra các mục tiêu nghiên cứu cụ thể, luận văn có ba câu hỏi tương

ứng:


- Các nhân tố nào ảnh hưởng đến CLTT BCTC của các NHTM Việt Nam ?

- Mức độ ảnh hưởng các nhân tố đến CLTT BCTC của các NHTM Việt Nam

như thế nào?

- Cần đưa ra những khuyến nghị nào để nâng cao CLTT BCTC của các NHTM Việt Nam?

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

-Đối tượng nghiên cứu: các nhân tố ảnh hưởng đến CLTT BCTC của các NHTM tại Việt Nam.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Thời gian: thực hiện luận văn từ tháng 8 năm 2017 đến tháng 3 năm 2019, thời gian thực hiện khảo sát từ tháng 8 năm 2018 đến tháng 12 năm 2018.

+ Không gian: các NHTM tại Việt Nam

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu hỗn hợp được tác giả sử dụng cho đề tài của mình bao gồm cả định tính và định lượng. Việc thực hiện nghiên cứu hỗn hợp này nhằm thực hiện những mục tiêu nghiên cứu đã đề ra và tìm ra đáp án cho ba câu hỏi nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu định tính: tác giả tiến hành tham khảo ý kiến chuyên gia từ đó đưa ra các nhân tố chính thức và hoàn thiện thang đo cho các nhân tố đó và thang đo CLTT BCTC.

- Phương pháp nghiên cứu định lượng: tác giả thực hiện khảo sát thực tế bằng việc phát bảng câu hỏi trực tiếp và gửi qua email. Sau khi thực hiện xong việc thu thập dữ liệu, bằng cách sử dụng mô hình phân tích nhân tố khám phá (EFA) có sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 20.0 để tiến hành các phân tích cần thiết nhằm nhận ra các nhân tố ảnh hưởng đến CLTT BCTC của các NHTM Việt Nam ở mức độ nào.


6. Những đóng góp của luận văn

- Về mặt khoa học: Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và tham khảo những đề tài liên quan nhằm xác định sự ảnh hưởng của các nhân tố đến CLTTBCTC và đưa vào mô hình nghiên cứu phù hợp với bối cảnh thực tế của các NHTM tại Việt Nam.

- Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu đưa ra kết quả giúp cung cấp bằng chứng thực nghiệm về sự ảnh hưởng của các nhân tố được đưa vào trong mô hình nghiên cứu đến CLTTBCTC của các NHTM Việt Nam và đề xuất các khuyến nghị cho các ngân hàng và các bên liên quan nhằm cải thiện và nâng cao CLTTBCTC của các NHTM.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài lời nói đầu và tài liệu tham khảo, phụ lục kèm theo thì nội dung chính của luận văn bao gồm 5 chương chính như sau:

Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu liên quan. Chương 2: Cơ sở lý thuyết.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Chương 4: Kết quả nghiên cứu và bàn luận. Chương 5: Kết luận và khuyến nghị.


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

1.1. Tổng quan các nghiên cứu nước ngoài

Nghiên cứu của Geert Braam & Ferdy van Beest (2013) thực hiện đo lường CLTT BCTC trong các DNNY tại Hoa Kỳ (theo GAAP), Anh (theo IFRS), dữ liệu nghiên cứu là các BCTC 10-K. Đo lường CLTT BCTC theo các tiêu chuẩn về CL của FASB & IASB 2010, đã thiết lập các thang đo đo lường CLTTBCTC cho các thuộc tính CL gồm: trung thực, thích hợp, có thể hiểu được, có khả năng so sánh, kịp thời. Nghiên cứu đã cho thấy kết quả rằng CLTT BCTC trong các DN Hoa Kỳ với điểm số 2,94 và các DN Anh là 3,18. Tuy nhiên các tác giả chỉ thực hiện việc xây dựng thang đo và đo lường CLTTBCTC mà chưa tìm hiểu về các nhân tố có ảnh hưởng đến CLTT BCTC của các DNNY.

Jouini Fathi (2013) tiến hành xem xét các yếu tố tác động đến CLTT BCTC với mẫu là các DNNY ở Pháp. Các nhóm nhân tố được Fathi sử dụng trong nghiên cứu gồm: Các đặc điểm của doanh nghiệp, Đặc điểm HĐQT, Chất lượng kiểm toán, cấu trúc sở hữu của các DNNY ở Pháp. Mẫu nghiên cứu là 101 DNNY ở Pháp thời gian từ năm 2004 đến năm 2008. CLTT BCTC được đánh giá theo 78 mục chỉ số công bố và được đánh giá qua các khoản dồn tích. Sau khi thực hiện phân tích cần thiết chạy kết quả, các tác giả kết luận rằng: Kích cỡ của HĐQT, sự tham gia của các thành viên vào các cuộc họp của HĐQT, sự hiện diện của công ty kiểm toán thuộc Big 4, tình trạng niêm yết thì tác động thuận chiều đến CLTTBCTC của DNNY tại Pháp. Tuy nhiên đề tài này chỉ hạn chế trong phạm vi các DN được niêm yết, cùng với đó thì biến phụ thuộc CLTT BCTC cũng được ước tính bằng chỉ số công bố nên việc đánh giá chỉ số chỉ dựa trên ý kiến chủ quan của nhà nghiên cứu.

Nghiên cứu của Nesrine Klai & Abdelwahed Omri (2011) đã kiểm tra sự tác động của các yếu tố thuộc cơ chế quản trị đối với CL BCTC cho 22 công ty phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Tunisia trong giai đoạn 1997-2007. Nghiên cứu đo lường CLTT BCTC theo hai mô hình: (i) Mc Nichols (2002) – coi độ lệch chuẩn của phần dư hoặc phần dư từ mô hình tính toán các khoản dồn tích là thước đo CL BCTC, (ii) Ball & Brown (1968) và Collins & Kothari (1989) – mô


hình ước tính mức lợi nhuận hàng năm từ chứng khoán, nếu phần dư từ mô hình có độ lệch chuẩn cao thì CL BCTC kém. Và đi đến kết luận rằng các cơ chế quản trị thể hiện chủ yếu quyền lực của cổ đông nước ngoài, gia đình, cổ đông lớn làm cho thông tin trên BCTC có CL kém, sự hiện diện của họ làm tăng việc quản trị lợi nhuận do theo đuổi các lợi ích cho riêng mình. Ngược lại, sự kiểm soát của Nhà nước và các tổ chức tài chính là ảnh hưởng tích cực đối với CLTT BCTC, vì họ đảm bảo việc kiểm soát quản lý và yêu cầu công bố thông tin. Quy mô DN và cơ hội tăng trưởng có liên quan đến CL BCTC kém, trong khi đó tỷ lệ nợ cải thiện CLTT BCTC.

Nghiên cứu của Ivana Mamis Sacer & Ana Oluic (2013) xem xét sự tác động của công nghệ thông tin đến CL hệ thống TTKT, phân tích các đặc điểm cơ bản của chất lượng hệ thống TTKT, thảo luận về mô hình đo lường CL TTKT. Tác giả đã thực hiện các cuộc khảo sát đối với nhân viên kế toán (NVKT) về độ tuổi trung bình của thiết bị và phần mềm máy tính, sự hỗ trợ về công nghệ thông tin, mức độ tác động của công nghệ thông tin đối với kế toán, sự hài lòng đối với hệ thống TTKT vào các năm 2001, 2008, 2012. Đánh giá theo thang đo Likert 5 điểm về các nhân tố: nhận thức của quản lý về tầm quan trọng của hệ thống TTKT, đào tạo và huấn luyện, bản chất của hệ thống TTKT, kiểm toán hệ thống thông tin. Trong đó, thang đo bản chất hệ thống TTKT được đo lường từ các yếu tố: rất dễ sử dụng, ổn định, có thể nâng cấp và được tích hợp với các hoạt động kinh doanh khác. Thêm vào đó, nghiên cứu cũng thực hiện khảo sát về CLTT theo các đặc tính thích hợp, có thể hiểu được, kịp thời, bảo mật, đầy đủ, tin cậy. Qua đó, kết luận rằng: công nghệ thông tin tác động đến cách hệ thống TTKT vận hành, đóng góp cho việc chuẩn bị, xử lý, trình bày và cung cấp TTKT. Các công ty cần phải có sự giáo dục phù hợp cho nhân viên và thực hiện kiểm toán liên tục để đảm bảo CL TTKT.

Nghiên cứu của Milly Jepchumba Tarus và cộng sự (2015) đã xem xét hai yếu tố năng lực nhân viên, kế toán trên máy tính ảnh hưởng đến tính chính xác của BCTC tại 25 NHTM ở thành phố Nakuru, Kenya. Tính chính xác được đánh giá theo các thang đo: có các giải thích về các giả định và ước tính trong BCTC, ngân


hàng sử dụng các thông tin phi tài chính thích hợp và chính xác để bổ sung cho thông tin tài chính, tính chính xác của quy trình BCTC được tăng cường thông qua cơ chế kiểm toán nội bộ, có các chỉ dẫn cụ thể về tính chính xác của BCTC. Các nhân tố được cho là có ảnh hưởng đến tính chính xác của BCTC, đó là: kiến thức của người sử dụng phần mềm máy tính là ảnh hưởng lớn nhất, tiếp theo là, mức độ đào tạo, sự chuyên nghiệp của nhân viên và đào tạo nội bộ của ngân hàng.

Nghiên cứu của Rasha Mahboub (2017) nhằm điều tra các nhân tố tác động đến CL BCTC của các ngân hàng tại Lebanese. Các chỉ tiêu đo lường CL BCTC được đánh giá theo tính thích hợp (10 mục), trình bày trung thực (8 mục), có thể hiểu được (8 mục), có thể so sánh được (7 mục), kịp thời (1 mục). Kết quả từ mô hình hồi quy đa biến đã chỉ ra mối quan hệ tích cực và có ý nghĩa giữa đòn bẩy, cấu trúc sở hữu, quy mô HĐQT với CL BCTC. Nhân tố quy mô ngân hàng, lợi nhuận và sự độc lập HĐQT thì không có ý nghĩa.

Olumide A. Olowokure và cộng sự (2016) thực hiện xác định sự ảnh hưởng của các nhân tố thuộc đặc điểm của ngân hàng đến CLTT BCTC của NHTM tại Nigeria. CLTT BCTC của nghiên cứu đã được xác định theo CL lợi nhuận thông qua các khoản dự phòng rủi ro tín dụng bất thường, để cho có sự phù hợp với đặc điểm của ngành ngân hàng. Nghiên cứu đã không tìm thấy chứng cứ nào về mối quan hệ giữa độ tuổi, quy mô, đòn bẩy tài chính với CLTT BCTC.

Cùng về chủ đề CLTT BCTC của các NHTM tại Nigeria, đề tài của Adebiyi & Olowookere (2016) đã áp dụng thuần túy cách xác định các khoản dồn tích bất thường theo Dechow và cộng sự (1995) mà chưa có sự sửa đổi cho phù hợp với ngành ngân hàng. Các tác giả đã kết luận rằng sự sở hữu của nhà đầu tư tổ chức và nước ngoài có tác động tiêu cực đến CLTT BCTC, còn sở hữu nhà quản lý giúp cải thiện CL BCTC vì giảm mức độ quản trị lợi nhuận.


Bảng 1.1. Tổng hợp một số nghiên cứu trên thế giới về đề tài CLTT BCTC


Tên đề tài và tác giả

Cách đo lường

CLTT BCTC

Các nhân tố ảnh hưởng

1. “Conceptually-Based Financial Reporting Quality Assessment. An Empirical Analysis on Quality Differences Between UK Annual Reports and US 10-K Reports” (Geert Braam &

Ferdy van Beest, 2013).

- Theo các đặc tính CL BCTC được công bố bởi IASB và FASB

Chưa đưa ra các nhân tố ảnh hưởng.

2. “The Determinants of the Quality of Financial Information Disclosed by French Listed Companies”

(Jouni Fathi, 2013)

- Đo lường theo chỉ số công bố thông tin gồm 78 mục, các khoản dồn tích.

Các đặc điểm của DN, Đặc điểm HĐQT, Chất lượng kiểm toán, cấu trúc sở hữu

3. “Corporate Governance and Financial Reporting Quality: The Case of Tunisian Firms” (Nesrine Klai & Abdelwahed Omri, 2011)

- Đo lường CLTT BCTC thông qua các khoản dồn tích và theo giá trị chứng khoán.

- Sự kiểm soát của cổ đông nước ngoài, các cổ đông lớn, gia đình, các tổ chức tài chính và Nhà nước.

- Các biến điều tiết quy mô

DN, tỷ lệ nợ và cơ hội tăng trưởng

4. “Information Technology and Accounting Information System’s Quality in Croatian Middle and Large Companies” (Ivana Mamis Saser & Ana

Oluis, 2013)

- Các đặc tính CL của BCTC.

Nhận thức của quản lý về tầm quan trọng của hệ thống TTKT, huấn luyện và đào tạo, bản chất của hệ thống TTKT, kiểm toán hệ

thống thông tin.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 3


5. “Determinants of Accurate Financial Statements Reporting In Listed Banks in Kenya; A Survey of Commercial Banks In Nakura Town” (Milly Jepchumba

Tarus và cộng sự , 2015)

- Chỉ đo lường tính chính xác của BCTC.

- Năng lực nhân viên

- Hệ thống kế toán trên máy tính.

6. “Main Determinants of Financial Reporting Quality in the Lebanese Banking Sector”

(Rasha Mahboub, 2017)

- Theo các đặc điểm CL của BCTC.

- Đòn bẩy, quy mô ngân hàng và lợi nhuận, sự độc lập HĐQT, cấu trúc sở hữu

và quy mô HĐQT

7. “Firm Structural Characteristics and Financial Reporting Quality of Listed Deposit Money Banks in Nigeria” ( Olowokure và cộng

sự (2016)

- Đo lường CL lợi nhuận bằng các khoản dự phòng rủi ro tín dụng bất thường.

Độ tuổi, quy mô, đòn bẩy

8. “Ownership Structure And The Quality Of Financial Reporting: Evidence From Nigerian Deposit Money Banks” (Adebiyi &

Olowookere (2016)

- Đo lường từ các khoản dồn tích.

- Sở hữu nước ngoài, tổ chức, nhà quản lý.

(Nguồn:Tác giả tổng hợp)

1.2. Tổng quan các nghiên cứu Việt Nam.

Luận văn thạc sĩ của Cao Thị Lệ Thư (2014) đã kế thừa theo nghiên cứu của Jouini Fathi (2013) bảng thuyết minh gồm 78 khoản mục, đã đánh giá CLTTKT trên BCTC bằng chỉ tiêu công bố thông tin không trọng số. Dữ liệu của luận văn gồm 119 BCTC năm 2013 đã kiểm toán của các DN thuộc các nhóm ngành xây


dựng, công nghệ chế biến và chế tạo. Trong đó, mô hình hồi quy gồm có biến phụ thuộc CLTTKT và 11 biến độc lập. Luận văn đã nêu ra kết luận rằng: CLTTKT trên BCTC của các DNNY đồng biến với quy mô DN và tỷ lệ thành viên không điều hành của HĐQT; CLTTKT nghịch biến với tỷ lệ cổ phần sở hữu bởi Nhà nước. Hạn chế của nghiên cứu là do việc đánh giá chỉ số dựa trên ý kiến chủ quan của nhà nghiên cứu nên việc đánh giá trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Các khoản mục công bố còn nhiều hạn chế khi nêu rò hết các nội dung cần đánh giá.

Luận văn thạc sĩ của Phan Minh Nguyệt (2014) đã trình bày các đặc tính CL TTKT theo các quan điểm và theo IASB để làm cơ sở nghiên cứu gồm: thích hợp, có thể so sánh, có thể hiểu được, đáng tin cậy, chi phí và lợi ích khi lập BCTC. Đề tài đã xem xét đến sự tác động của 7 nhân tố tới CL TTKT. Luận văn thu thập dữ liệu thông qua phiếu khảo sát 200 đối tượng làm việc ở nhiều ngành nghề. Kết quả nghiên cứu đã chỉ rằng 5 nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến CLTTKT trên BCTC là: rủi ro kiểm toán, nhà quản trị DN, việc lập và trình bày BCTC, thuế, lợi ích và chi phí. Tuy nhiên việc thu thập số liệu của đề tài với đối tượng khảo sát gồm nhiều thành phần khác nhau, trong đó một số không có hiểu biết về kế toán nên khó có được kết quả chính xác, hợp lý. Ngoài ra, đề tài thực hiện nghiên cứu với mẫu khảo sát chỉ vừa đủ để đáp ứng điều kiện về cỡ mẫu tối thiểu nên để phát triển và vận dụng mô hình này vào thực tế được thì cần phải khảo sát một số lượng mẫu lớn. Ngoài ra, đề tài này chưa phân tích BCTC theo từng ngành nghề kinh doanh (như địa ốc, sản xuất chế biến, dịch vụ, ngân hàng…) để thấy được ngành nghề của doanh nghiệp cũng là một nhân tố có thể ảnh hưởng đến chất lượng TTKT trình bày trên BCTC của các công ty niêm yết.

Luận án tiến sĩ của Nguyễn Trọng Nguyên (2016) xem xét về sự ảnh hưởng các nhân tố thuộc QTCT đến CLTT BCTC của 195 DNNY ở Việt Nam. Để đánh giá CLTT BCTC, đề tài sử dụng các thuộc tính đo lường CLTT BCTC của FASB & IASB 2010. Nghiên cứu chỉ ra kết quả CLTT BCTC của các DN đạt từ loại khá trở xuống. Các nhân tố ảnh hưởng cùng chiều đến CLTT BCTC là: Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập, sự hiện diện thành viên HĐQT có kiến thức và kinh nghiệm về kế

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/06/2022