do KTNN thực hiện, các giải pháp để hoàn thiện và nâng cao chất lượng kiểm toán BCTC.
+ Các câu hỏi để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC gồm 3 nhóm, 12 tiêu chí và 55 câu hỏi. Nội dung đề nghị đối tượng khảo sát (KTVNN) cho biết đánh giá của họ về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới chất lượng kiểm toán các ngân hàng do KTNN thực hiện, với thang đo mức độ ảnh hưởng 1-5, trong đó 1- Rất thấp, 2- Thấp, 3- Bình thường, 4- Cao, 5- Rất cao.
(b) Bảng hỏi phỏng vấn sâu dành cho lãnh đạo các ngân hàng được KTNN thực hiện kiểm toán (Xem phụ lục số 2)
- Mục đích của bảng hỏi là để đánh giá chất lượng kiểm BCTC các ngân hàng do KTNN thực hiện và các giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị tại các ngân hàng dựa trên báo cáo kiểm toán
- Nội dung bộ câu hỏi được chia thành 2 phần:
Phần 1: Các thông tin cá nhân như họ tên, chức vụ, đơn vị công tác, số năm kinh nghiệm làm việc.
Phần 2: Các câu hỏi phỏng vấn sâu bao gồm
+ Câu hỏi chung về chất lượng kiểm toán BCTC được đánh giá thông qua 4 tiêu chí và thang đo mức độ ảnh hưởng 1-5, trong đó 1- Rất thấp, 2- Thấp, 3- Bình thường, 4- Cao, 5- Rất cao.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Kiểm Toán Báo Cáo Tài Chính Do Kiểm Toán Nhà Nước Thực Hiện
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Kiểm Toán Bctc Các Ngân Hàng Do Ktnn Thực Hiện
- Các Tiêu Chí Đo Lường Biến Phụ Thuộc- Chất Lượng Kiểm Toán Bctc
- Đặc Điểm Của Hoạt Động Kiểm Toán Báo Cáo Tài Chính Các Ngân Hàng Do Ktnn Thực Hiện
- Kết Quả Chấm Điểm Và Xếp Loại Chất Lượng Các Cuộc Kiểm Toán Ngân Hàng Do Ktnn Thực Hiện Trong Năm 2017
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Kiểm Toán Bctc Các Ngân Hàng Do Kiểm Toán Nhà Nước Thực Hiện
Xem toàn bộ 194 trang tài liệu này.
+ Các câu hỏi mở phỏng vấn lãnh đạo các ngân hàng đánh giá về thực trạng kiểm toán BCTC các ngân hàng do KTNN thực hiện dưới góc độ là đơn vị được kiểm toán, kết quả và kết luận của KTNN có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động quản trị tại các ngân hàng hiện nay; và dựa vào các kiến nghị kiểm toán của KTNN, các ngân hàng đã tiến hành hoạt động quản trị ngân hàng như thế nào?
3.4.2. Lựa chọn đối tượng khảo sát
Mẫu nghiên cứu để gửi phiếu khảo sát là KTVNN đã tham gia các đoàn kiểm toán hoặc KTVNN thực hiện soát xét chất lượng các cuộc kiểm toán các ngân hàng trong giai đoạn 2015- 2019 và lãnh đạo của 7 ngân hàng được KTNN thực hiện kiểm toán, bao gồm: Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nаm (Agribank), Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nаm (BIDV), Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nаm (Vietinbank), Ngân hàng TMCP Ngоại Thương Việt
Nаm (Vietcombank), Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB), Ngân hàng chính sách xã hội (VBSP), và Ngân hàng hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank).
Lý do chọn đối tượng khảo sát là KTVNN vì đây là đối tượng trực tiếp tham gia vào các cuộc kiểm toán hoặc soát xét chất lượng các cuộc kiểm toán ngân hàng nên họ sẽ là người có kinh nghiệm và hiểu biết rõ nhất về các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng do chính họ thực hiện. Từ đó, có sự đánh giá đáng tin cậy về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố.
Ngoài ra, đối tượng là lãnh đạo các ngân hàng bao gồm Tổng Giám đốc/ Phó tổng giám đốc hoặc Trưởng ban kiểm soát được chọn để phỏng vấn sâu nhằm mục đích đánh giá chất lượng kiểm toán BCTC trên quan điểm thỏa mãn của người sử dụng kết quả kiểm toán. Từ đó, tìm hiểu được ảnh hưởng của kết quả và chất lượng kiểm toán của KTNN tới việc cải tiến hoạt động quản trị tại các ngân hàng dựa trên các báo cáo kiểm toán.
Kích thước của mẫu áp dụng trong nghiên cứu được dựa theo yêu cầu của phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis) và hồi quy đa biến có thể được tính bằng 2 cách như sau:
- Cách thứ nhất: Dựa theo nghiên cứu của Hair, Anderson, Tatham và Black (1998) cho tham khảo về kích thước mẫu dự kiến. Theo đó kích thước mẫu tối thiểu là gấp 5 lần tổng số biến quan sát. Đây là cỡ mẫu phù hợp cho nghiên cứu có sử dụng phân tích nhân tố (Comrey, 1973; Roger, 2006). n=5*m trong đó m là số lượng câu hỏi trong bài.
- Cách thứ hai: cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được tính theo công thức là n=50 + 8*m (m: số biến độc lập) (Tabachnick và Fidell, 1996). Trong đó: m là số lượng nhân tố độc lập
Như vậy số mẫu của nghiên cứu tối thiểu phải là 275 phiếu do số lượng câu hỏi trong khảo sát là 55 câu hỏi.
3.4.3. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
(a) Phương pháp thu thập số liệu
- Thu thập các số liệu sơ cấp: Các số liệu sơ cấp thông qua bảng hỏi được tiến hành khảo sát trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua email/ phỏng vấn qua điện thoại. Thời gian khảo sát được diễn ra trong thời gian 11/2019 đến 03/2020. Kết quả, nghiên cứu
thu thập được 275 phiếu trả lời của KTVNN và 7 phiếu phỏng vấn sâu của lãnh đạo các ngân hàng được KTNN thực hiện kiểm toán.
- Thu thập các số liệu thứ cấp: Bên cạnh các số liệu sơ cấp, các số liệu thứ cấp cũng được thu thập để đánh giá thực trạng chất lượng kiểm toán BCTC các ngân hàng do KTNN thực hiện, bao gồm các tài liệu nội bộ về chất lượng kiểm toán, các báo cáo của Vụ chế độ và kiểm soát chất lượng về kiểm toán các ngân hàng, Hệ thống chuẩn mực của KTNN, các văn bản, quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước liên quan tới chất lượng kiểm toán nói chung và chất lượng kiểm toán các ngân hàng nói riêng.
(b) Phương pháp xử lý số liệu: Phiếu khảo sát sau khi thu hồi về và được kiểm tra thông tin đảm bảo sự phù hợp sẽ được mã hóa dữ liệu, khai báo và nhập dữ liệu trên file Excel.
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CÁC NGÂN HÀNG DO KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN
4.1. Đặc điểm của hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính các ngân hàng do KTNN thực hiện
4.1.1. Giới thiệu chung về Kiểm toán Nhà nước
4.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
KTNN Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ và hoạt động theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN được ban hành kèm theo Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ. KTNN Việt Nam là một cơ quan hoàn toàn mới, không có tổ chức tiền thân. Ngay sau khi được thành lập, KTNN vừa hình thành bộ máy tổ chức, vừa xây dựng cơ sở vật chất, tuyển dụng và đào tạo cán bộ, KTV, vừa xây dựng chuẩn mực, quy trình kiểm toán và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kiểm toán do Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ giao. Sự hình thành và phát triển KTNN là một tất yếu khách quan góp phần đảm bảo phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả, ngăn ngừa các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí ngân sách nhà nước (NSNN), tiền và tài sản của nhà nước.
Trong quá trình hoạt động của mình, vị thế của KTNN đã được xã hội thừa nhận và khẳng định, ngày càng trở thành công cụ mạnh và hữu hiệu của Nhà nước, Quốc hội trong việc kiểm tra, giám sát tài chính công, tài sản công, ngày 14/6/2005, Luật KTNN đã được Quốc hội khoá XI thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, đã mở ra một thời kỳ phát triển mới của KTNN. Trong Luật quy định rõ “KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân thủ pháp luật”, có chức năng kiểm toán BCTC, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của Nhà nước. Với chức năng là cơ quan kiểm tra tài chính công của quốc gia, KTNN thực hiện kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của số liệu quyết toán NSNN, BCTC của các cơ quan hành chính nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức, đơn vị có quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước. Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN cung cấp kết quả kiểm toán cho Chính phủ,
Quốc hội và các cơ quan Nhà nước nhằm chấn chỉnh, hoàn thiện công tác quản lý tài chính. KTNN cũng thực hiện chức năng tư vấn, góp ý cho các đơn vị được kiểm toán để chất lượng quản lý tài chính dần đi vào nề nếp; kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước, Chính phủ hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý tài chính, ngân sách quốc gia.
Cùng với nhu cầu kiểm toán ngày càng lớn, cần thiết phải có sự hoàn thiện về địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức của KTNN, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã khẳng định chiến lược phát triển KTNN phải quán triệt các quan điểm sau:
- Phát triển KTNN thành công cụ trọng yếu và hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước; hỗ trợ, phục vụ đắc lực cho hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong thực hiện chức năng giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của các địa phương.
- Phát triển KTNN đảm bảo quán triệt và phù hợp các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; tuân thủ quy định của hệ thống pháp luật của Nhà nước và đảm bảo tính độc lập đối với hoạt động KTNN nhằm thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của KTNN theo quy định của pháp luật, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý ngân sách, tiền và tài sản nhà nước trong công cuộc đổi mới.
- Phát triển KTNN phải đảm bảo quán triệt quan điểm cải cách hành chính nói chung, cải cách tài chính công nói riêng, xác định cho được quy mô hợp lý trong từng thời kỳ đủ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Từng bước xây dựng cơ quan KTNN chuyên nghiệp, hiện đại, phát triển hợp lý về số lượng hợp lý và nâng cao về chất lượng, hết sức coi trọng về chất lượng, tinh gọn về bộ máy, tiết kiệm kinh phí, hoạt động hiệu quả. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin hiện đại trong quản lý và hoạt động kiểm toán.
- Nhà nước có chính sách ưu tiên thích đáng các nguồn lực cần thiết cho tổ chức bộ máy và hoạt động của KTNN, chính sách đầu tư phát triển công nghệ thông tin, chính sách hỗ trợ đào tạo, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Phát triển KTNN phải đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với các nguyên tắc, thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Với quan điểm phát triển đó, Hiến pháp năm 2013 đã hiến định địa vị pháp lý của KTNN và Tổng Kiểm toán nhà nước tại Điều 118, đánh dấu bước ngoặt trên chặng đường phát triển của KTNN.
(a) KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
(b) Tổng Kiểm toán nhà nước là người đứng đầu KTNN, do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán nhà nước do luật định. Tổng Kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
(c) Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của KTNN do luật định.
Sự kiện quan trọng này đã nâng tầm KTNN từ cơ quan do “Luật định” thành “Hiến định”; đồng thời, cũng đặt ra yêu cầu phải nâng cao vai trò, trách nhiệm của KTNN đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước tương xứng với vị thế là một cơ quan hiến định độc lập.
Cùng với Hiến pháp năm 2013, Luật KTNN năm 2015 đã được Quốc hội ban hành. Luật này áp dụng cho cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, KTNN, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đối với hoạt động KTNN và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2016. Điều đó chứng tỏ sự hình thành và phát triển cơ quan KTNN để thực hiện chức năng kiểm tra tài chính công, tài sản công là phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế đất nước với khu vực và thế giới.
Theo Luật KTNN năm 2015, chức năng của KTNN là đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Trong đó:
Tài chính công bao gồm: NSNN; dự trữ quốc gia; các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; tài chính của các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị cung cấp dịch vụ, hàng hóa công, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có sử dụng kinh phí, ngân quỹ nhà nước; phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp; các khoản nợ công.
Tài sản công bao gồm: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời; tài nguyên thiên nhiên khác; tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; tài sản công được giao cho các doanh nghiệp quản lý và sử dụng; tài sản dự trữ nhà nước; tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư, quản lý thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
4.1.1.2. Cơ cấu tổ chức
KTNN được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất, gồm: bộ máy điều hành, KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực và các đơn vị sự nghiệp. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể cơ cấu tổ chức của KTNN. Tổng Kiểm toán nhà nước quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đơn vị trực thuộc KTNN. Số lượng KTNN chuyên ngành và KTNN khu vực trong từng thời kỳ được xác định trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ do Tổng Kiểm toán nhà nước trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của KTNN bao gồm 32 Vụ và đơn vị tương đương cấp Vụ như Sơ đồ 4.1
Mỗi đơn vị có các phòng chức năng để thực hiện nhiệm vụ. Văn phòng KTNN có con dấu riêng; KTNN khu vực và các đơn vị sự nghiệp có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở riêng.
KTNN chuyên ngành thực hiện kiểm toán theo chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức ở Trung ương; KTNN khu vực thực hiện kiểm toán đối với cơ quan, tổ chức ở địa phương trên địa bàn khu vực và các nhiệm vụ kiểm toán khác theo sự phân công của Tổng Kiểm toán nhà nước.
Hình 4.1. Mô hình cơ cấu tổ chức của Kiểm toán nhà nước
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
4.1.1.3. Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán
Theo Quyết định số 146/QĐ- KTNN ngày 18/2/2014 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Vụ chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán, Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán là đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà nước có chức năng tham mưu giúp Tổng Kiểm toán nhà nước về công tác xây dựng, ban hành, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản về chuẩn mực, quy trình và phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ Kiểm toán nhà nước; công tác xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán nội bộ; tổ chức kiểm soát chất lượng kiểm toán.
Trong công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán, Vụ chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán thực hiện một số nhiệm vụ như sau: