Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế - 2

2.4 Các hoạt động cung cấp dịch vụ NH

- Các nghiệp vụ ngoại bảng

Những nghiệp vụ này không nằm trong bảng cân đối kế toán của NH nhưng nó là hoạt động không thể thiếu và đang ngày càng phát triển trong nền kinh tế hiện đại, bao gồm: bảo lãnh, tín dụng cam kết và nghiệp vụ chuyển nhượng các khoản cho vay.

- Nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ:

Bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống thì các dịch vụ NH khác như: tư vấn tài chính, uỷ thác, kinh doanh bảo hiểm, thanh toán hộ, cho thuê két sắt, đang rất phát triển và mang lại nguồn thu nhập lớn cho các NH hiện đại. Chất lượng của các dịch vụ quyết định đến hình ảnh, uy tín và khả năng cạnh tranh của NH.‌

- Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối:

Khi được sự cho phép từ NHNN thì các NHTM hoàn toàn có thể kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Các NHTM thường kinh doanh dưới nhiều hình thức là giao ngay, kỳ hạn, quyền chọn, tương lai hoặc hoán đổi ngoại tê. Với sự phát triển không ngừng của kinh tế quốc tế thì việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh ngoại hối sẽ giúp NHTM có thêm thu nhập.


II. HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM


1. Khái niệm về hiệu quả hoạt động

Hiệu quả, theo nghĩa chung nhất, được hiểu là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh các lợi ích kinh tế xã hội do một hoạt động nào đó đem lại. Trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa là hiệu suất, là năng suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong lao động nói chung hiệu quả lao động là năng suất lao động, được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc là bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Trong xã hội học, một hiện tượng, một sự biến có hiệu quả xã

hội, tức là có tác dụng tích cực đối với một lĩnh vực xã hội, đối với sự phát triển của lĩnh vực đó.

Hiệu quả hoạt động được đánh giá trên hai mặt là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Tuỳ theo mục đích của hoạt động mà cho ta hiệu quả kinh tế hay hiệu quả xã hội là tốt nhất.

Hiệu quả kinh tế là tiêu chí chất lượng quan trọng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đạt được về mặt kinh tế với chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó. Hiệu quả xã hội là chỉ tiêu tương đối phản ánh kết quả đạt được về xã hội và chi phí bỏ ra để thực hiện. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau vì thế để đánh giá được đầy đủ về hiệu quả người ta không chỉ đánh giá một loại hiệu quả đơn thuần mà phải đặt trong mối quan hệ với hiệu quả còn lại.

Hiệu quả hoạt động của NHTM là hiệu quả của tất cả các hoạt động kinh doanh của NHTM được xem xét từ hai góc độ là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Tuy nhiên, trong phạm vi giới hạn của một khoá luận tốt nghiệp, tác giả chỉ phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTM trên góc độ hiệu quả kinh tế.

Vì một số hoạt động của NHTM phải bỏ ra chi phí, một số khác lại tạo ra thu nhập và rủi ro. Do đó kết quả cuối cùng mà NHTM thực thu được là lợi nhuận tương ứng với mức rủi ro mà NHTM phải gánh chịu. Vì thế hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM sẽ được nhìn nhận tổng quát ở tình hình lợi nhuận và rủi ro của NH. Khi một NHTM có lợi nhuận cao và rủi ro thấp thì được xem là NH hoạt động có hiệu quả cao.

Hiệu quả hoạt động của NHTM có thể được đánh giá ở từng mảng hoạt động kinh doanh, chẳng hạn: hiệu quả ở hoạt động huy động vốn đó là huy động được đủ vốn đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của NHTM, tạo thu nhập cao và rủi ro thấp; hiệu quả trong các hoạt động dịch vụ khác là cung ứng ngày càng nhiều các sản phẩm dịch vụ tiện ích cho khách hàng với chi phí thấp, rủi ro thấp và thu nhập cao.

2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTM

Có nhiều chỉ tiêu khác nhau dùng để đánh giá hiệu quả kinh doanh của NHTM. Trong thời gian gần đây, thế giới đã sử dụng rộng rãi mô hình CAMEL 2 làm cơ sở để lựa chọn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động cũng như xếp hạng đối với các tổ chức tài chính nói chung, NHTM nói riêng.

Mô hình này chỉ rõ 5 mặt quan trọng cần phân tích để đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính. Đó là:

C = Capital adequacy (Vốn của NHTM); A = Asset quality (Chất lượng tài sản có);

M = Management ability (Năng lực quản trị); E = Earnings (Lợi nhuận);

L = Liquidity (Thanh khoản).

Khi sử dụng 5 chỉ tiêu CAMEL, các nhà phân tích có thể đánh giá được toàn diện chất lượng hoạt động của NHTM. Ngân hàng đánh giá chỉ tiêu tín nhiệm quốc tế Moody thường tiến hành xếp hạng các NHTM trên thế giới theo tiêu chuẩn CAMEL này.

Tại Việt Nam, NHNN cũng đã ban hành Quy chế xếp hạng các TCTD cổ phần (năm 1998) theo chuẩn mực quốc tế CAMEL, và đặt mục tiêu giám sát, phân tích, đánh giá chất lượng hoạt động các TCTD theo các chỉ tiêu CAMEL 3.

Có thể đánh giá CAMEL đang là mô hình đánh giá được sử dụng rộng rãi và đáng tin cậy.

Do đó, khóa luận lựa chọn hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTM trên cơ sở 5 yếu tố của mô hình này, bao gồm vốn (cụ thể là huy động vốn), chất lượng tài sản có (cụ thể là chất lượng tín dụng), khả năng sinh lời, khả năng thanh khoản và quản trị rủi ro của NHTM theo góc độ hiệu quả kinh tế.


2 GS.TS. Lê Văn Tư (2005), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính, tr 629

3 http://www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin=390

2.1 Quy mô, cơ cấu, tốc độ tăng trưởng và rủi ro trong huy động vốn

Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả trong hoạt động huy động nguồn vốn của NHTM. Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chính của NHTM, tạo nguồn vốn kinh doanh cho NH. Hoạt động huy động vốn được đánh giá là hiệu quả khi nguồn vốn mà NHTM huy động được ngày càng nhiều, tốc độ tăng trưởng cao, đảm bảo đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vốn qua các thời kỳ; Cơ cấu nguồn vốn huy động phải hợp lý, cân đối với nhu cầu về sử dụng vốn; Đồng thời, nguồn vốn huy động phải có tính ổn định cao, bền vững và đặc biệt là chi phí huy động nguồn đạt ở mức thấp nhất (giá cả rẻ) so với mặt bằng chung. Vì vậy khi nghiên cứu vấn đề này thường xem xét theo 2 chỉ số sau:

- Chỉ số Tổng vốn huy động/ Vốn chủ sở hữu

Tổng vốn huy động Vốn chủ sở hữu

Chỉ số này xác định khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế của NHTM. Thông thường chỉ tiêu này có giá trị từ 15 đến 20 lần.

- Chỉ số Số dư từng loại tiền gửi/ Tổng vốn huy động

Số dư từng loại tiền gửi * 100% Tổng vốn huy động

Chỉ số này chỉ ra cơ cấu vốn huy động để ngân hàng xác định được mức chi phí và đảm bảo tính thanh khoản, giúp NHTM hạn chế rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hóa chi phí đầu vào.

2.2 Quy mô, cơ cấu, tốc độ tăng trưởng và rủi ro trong hoạt động sử dụng vốn

Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM. Vốn kinh doanh của NHTM được sử dụng chủ yếu cho hoạt động tín dụng, ngoài ra NHTM còn sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư, kinh doanh ngoại tệ...

Tuy nhiên, trong phạm vi khóa luận này, tác giả chỉ đi sâu phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng, là một trong hai hoạt động cơ bản nhất của NHTM cùng với huy động nguồn vốn. Đây cũng chính là hoạt động mang lại thu nhập chính của các NHTM hiện nay. Bên cạnh đó, chất lượng tín dụng còn là vấn đề cốt lõi khi đánh giá chất lượng Tài sản có của NHTM, tức là phản ánh khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời và năng lực quản lý của NHTM.

Khi đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng, các nhà phân tích thường sử dụng các chỉ số sau:

- Chỉ số 1: Tổng dư nợ/ Nguồn vốn huy động

Tổng dư nợ * 100% Tổng vốn huy động

Chỉ số này giúp so sánh khả năng cho vay của NHTM với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động. Chỉ số 1 càng lớn, vốn tồn đọng càng ít, đồng thời rủi ro tín dụng càng lớn.

- Chỉ số 2: Tổng dư nợ / Tài sản có:


Tổng dư nợ * 100% Tài sản có

Chỉ số 2 tính toán hiệu quả tín dụng của một đồng tài sản có và quy mô hoạt động tín dụng của NHTM. Đồng thời, gián tiếp phản ánh khả năng sinh lời của các hoạt động sử dụng vốn khác ngoài tín dụng.

- Chỉ số 3: Nợ quá hạn / Tổng dư nợ:

Nợ quá hạn * 100% Tổng dư nợ

Chỉ số 3 thể hiện chất lượng tín dụng. Theo thông lệ quốc tế, một NHTM có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ nhỏ hơn hoặc bằng 5% thì NH đó có khả năng kiểm soát được rủi ro trong hoạt động tín dụng. NHTM có tỷ lệ nợ xấu xấp xỉ 1% là NH hoạt động có hiệu quả, nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng cho vay cao; từ 3% đến 5% là mức có thể chấp nhận; trên 5% thì NHTM phải đối mặt

với nguy cơ hoạt động không bền vững, lợi nhuận giảm hoặc có thể thua lỗ do phải trích lập một khoản lớn dự phòng tổn thất tín dụng, chất lượng tín dụng suy giảm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh của NH.

- Chỉ số Thu nhập tiền lãi ròng / Chi phí lãi:

Thu nhập tiền lãi ròng * 100% Chi phí lãi

Chỉ số này phản ánh tốt nhất hiệu quả tín dụng của NHTM, nó cho biết cứ 1 đồng chi phí phải trả cho đồng vốn sử dụng thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ hoạt động cho vay của NHTM.

- Chỉ số Số dư từng nhóm nợ/ Tổng dư nợ tín dụng

Số dư từng nhóm nợ * 100% Tổng dư nợ tín dụng

Chỉ số này chỉ ra cơ cấu tín dụng của NHTM để xác định chất lượng các khoản vay cũng như khả năng kiểm soát nợ và thu hồi nợ của NHTM. Đồng thời, phản ánh năng lực thẩm định tín dụng cũng như phán đoán rủi ro của đội ngũ cán bộ NH.

2.3 Các chỉ tiêu khả năng sinh lời

Lợi nhuận hay khả năng sinh lời là thước đo cuối cùng trong quá trình đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTM. Lợi nhuận là thước đo khả năng tạo giá trị cho các cổ đông, tạo vốn kinh doanh bổ sung và duy trì hay nâng cao uy tín cho NHTM. Lợi nhuận cũng là thước đo lượng hóa năng lực của khâu quản trị điều hành trong mối tương quan với số lượng và chất lượng của Tài sản có, Tài sản nợ của NHTM.

Dưới đây là một số chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá khả năng sinh lời của NHTM:

- Chỉ tiêu Lợi nhuận trước thuế/ Tổng tài sản bình quân:

Lợi nhuận trước thuế t1 * 100% (Tổng tài sản t1 + Tổng tài sản t0)/ 2

* Tổng tài sản t1: Tổng tài sản kỳ nghiên cứu của NHTM

* Tổng tài sản t0: Tổng tài sản kỳ gốc của NHTM

Chỉ tiêu “Lợi nhuận trước thuế/ Tổng tài sản bình quân” biểu diễn khả năng sinh lời của tài sản, tức là phản ánh lợi nhuận trước thuế được tạo ra là bao nhiêu trên 1 đơn vị tài sản có của NHTM.

- Chỉ tiêu Lợi nhuận sau thuế/ Tổng tài sản bình quân (ROA)


ROA =

Lợi nhuận sau thuế t1 * 100% (Tổng tài sản t1 + Tổng tài sản t0)/ 2

Chỉ tiêu này là một trong những chỉ tiêu cơ bản được các nhà phân tích NH sử dụng thường xuyên và hiệu quả. Chỉ tiêu ROA phản ánh khả nằng tạo lợi nhuận ròng của tổng tài sản, tức là phản ánh số lợi nhuận ròng được tạo ra là bao nhiêu trên một đơn vị tài sản của NHTM.

- Chỉ tiêu Thu nhập lãi suất ròng/ Tài sản sinh lời bình quân:

Thu nhập lãi suất ròng t1 * 100% (Tổng tài sản sinh lời t1 + Tổng tài sản sinh lời t0)/ 2

* Tổng tài sản sinh lời = Các khoản cho vay + Đầu tư chứng khoán + góp vốn

* Tổng tài sản sinh lời t1: Tổng tài sản sinh lời kỳ nghiên cứu của NHTM

* Tổng tài sản sinh lời t0: Tổng tài sản sinh lời kỳ gốc của NHTM

Chỉ tiêu “Thu nhập lãi suất ròng/ Tài sản sinh lời bình quân” phản ánh chênh lệch lãi suất trên một đơn vị tài sản sinh lời. Hay nói cách khác, chỉ tiêu này phản ánh chênh lệch giữa thu nhập và chi phí đối với hoạt động tài chính của NHTM.

- Chỉ tiêu lãi ròng biên tế: là mức chênh lệch giữa lãi và chi phí của một NHTM được tính theo công thức:

Thu nhập lãi ròng * 100% Tổng tài sản có bình quân

Chỉ tiêu này đo lường khả năng quản lý tài sản có trong việc tạo ra lợi nhuận ròng và mức lãi ròng biên tế. Mức lãi ròng được nhà quản lý NH theo dõi

chặt chẽ bởi vì căn cứ vào đó có thể dự đoán được khả năng sinh lãi của NHTM. Nếu như mức chênh lệch giữa thu nhập và chi phí bị nhỏ lại, thì để đạt đựoc một mức doanh lợi theo kế hoạch, NHTM hoặc phải tăng lợi tức bằng các hoạt động kinh doanh hoặc phải giảm bớt các khoản chi tiêu.

- Chỉ tiêu Lợi nhuận sau thuế/ Vốn chủ sở hữu (ROE)


ROE =

Lợi nhuận sau thuế * 100% Nguồn vốn chủ sở hữu

Thu nhập sau thuế

Tổng thu từ hoạt động

XTổng thu từ hoạt động

Tổng tài sản

XTổng tài sản

Tổng vốn chủ sở hữu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 62 trang tài liệu này.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế - 2

Chỉ tiêu này được coi là quan trọng nhất đối với những nhà quản lý NHTM bởi nó phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Các doanh nghiệp cũng thường dùng chỉ số này để so sánh mức sinh lời từng tháng của một doanh nghiệp hoặc của các doanh nghiệp khác nhau. Về mặt lý thuyết, ROE càng cao thì sử dụng vốn càng có hiệu quả.

ROE =


ROE = Tỷ lệ sinh lời hoạt động x Tỷ lệ hiệu quả sử dụng tài sản x Tỷ trọng vốn chủ sở hữu

* Tỷ lệ sinh lời hoạt động (NPA) phản ánh tính hiệu quả của việc quản lý chi phí và các chính sách định giá dịch vụ.

* Hiệu quả sử dụng tài sản (AU) phản ánh các chính sách quản lý danh mục đầu tư (đặc biệt là cấu trúc và thu nhập của tài sản)

* Tỷ trọng vốn chủ sở hữu (EM) phản ánh các chính sách đòn bẩy tài chính và các nguồn vốn đuợc lựa chọn để tài trợ cho hoạt động NH (nợ hay vốn chủ sở hữu)

- Tổng tài sản sinh lời/ Tổng tài sản:

Tổng tài sản sinh lời * 100% Tổng tài sản

Chỉ tiêu này phản ánh tình hình sử dụng tài sản của NH sinh lãi như thế nào, nó biểu diễn cho ta biết có bao nhiêu đơn vị tài sản sinh lãi trên 100 đơn vị

tài sản có. Nói chung, nếu chỉ tiêu này giảm thì NHTM sẽ phải xem xét để tăng thu dịch vụ và giảm chi phí nếu muốn duy trì mức lợi nhuận hiện tại.

- Chi lương và hành chính/ Tổng thu nhập:

Chi lương và hành chính * 100% Tổng thu nhập

Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu suất hoạt động của NH, chỉ tiêu này đặc biệt có ích đối với những nhà quản lý nhân sự, bởi qua đó, ta có thể thấy rằng để tạo ra 100 đơn vị thu nhập thì cần chi phí bao nhiêu cho nhân sự và các phụ phí, hành chính đi kèm.

2.4 Các chỉ tiêu thanh khoản

Đánh giá khả năng thanh khoản, các nhà phân tích thường xem xét liệu NHTM có thường xuyên dự trữ, duy trì nguồn tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn tại các TCTD khác hay không, hoặc các tài sản có thể chuyển hóa ngay thành tiền để đáp ứng nhu cầu về tiền ở mọi thời điểm được hay không. Nếu NHTM quá tập trung đầu tư vốn kinh doanh cho những hoạt động sinh lời mà không chú trọng đến tính thanh khoản của tài sản có thì hoạt động kinh doanh của NHTM sẽ mang tính bất ổn rất cao, nguy cơ phá sản là tương đối lớn khi NHTM gặp thời kỳ khó khăn.

Có 3 chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh khoản của NHTM, đó là:

- Chỉ tiêu Tài sản có thanh khoản/ Tổng tiền gửi:

Tài sản có thanh khoản * 100% Tổng tiền gửi

* Tài sản có thanh khoản = Tài sản chịu rủi ro thấp nhất + Chứng khoán dễ chuyển nhượng. (Tiền mặt + chứng khoán ngắn hạn)

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán nhanh của NHTM, tức là trên 100 đơn vị tiền gửi, có bao nhiêu phần có tính thanh khoản cao, hay nói cách khác, có thể nhanh chóng chuyển thành tiền mặt dùng để thanh toán ngay. Chỉ tiêu thanh khoản đặc biệt có ý nghĩa trong việc quản lý tài sản có và tài sản Nợ -

Assets et Liabilities Management - ALM. Tính thanh khoản là một yếu tố tố cần thiết giúp NHTM trong những điều kiện khó khăn.

- Chỉ tiêu Tổng dư nợ tín dụng/ Tổng tiền gửi:

Tổng dư nợ tín dụng * 100% Tổng tiền gửi

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng NH sử dụng tiền gửi để cho vay lại như thế nào. Chỉ tiêu này thể hiện mối tương quan giữa hai hoạt động chính của NHTM là huy động và tín dụng. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ NH cho vay càng tốt. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này thấp, NH đó sẽ có tồn quỹ tiền mặt lớn, do đó tính thanh khoản lại càng cao.

Với vị trí của một nhà lãnh đạo, những người quản lý (NHTW và Ban Giám đốc NHTM) cần có một chiến lược và phương án hành động, tạo định hướng cho NH, nên cho vay bao nhiêu trên tổng số tiền huy động được để đảm bảo mang lại lợi nhuận, giữ được sự tăng trưởng nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho NH.

- Chỉ tiêu tài sản có thanh khoản/ Tổng tài sản:

Tài sản có thanh khoản * 100% Tổng tài sản

* Tài sản có thanh khoản = Tiền mặt + chứng khoán ngắn hạn + Chứng khoán dễ chuyển nhượng.

Nếu chỉ tiêu này tăng thì

(i) khả năng sinh lời của NHTM giảm;

(ii) khả năng thanh khoản của NHTM tăng.


2.5 Các chỉ tiêu quản trị rủi ro

Một NHTM hoạt động hiệu quả là NH có khả năng quản trị rủi ro tốt. Bên cạnh những chỉ tiêu định tính khi đánh giá năng lực quản trị ngân hàng của các cán bộ cao cấp, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu định lượng để xem xét khả

năng chịu đựng của vốn tự có đối với các rủi ro kinh doanh và việc trích lập quỹ dự phòng tài chính.

Vốn tự có đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh NH. Đó là thước đo khả năng hấp thụ những tổn thất cuối cùng tại thời điểm thanh lý NH. Vốn tự có lớn sẽ giúp cho NHTM dễ vượt qua những tổn thất nghiêm trọng và cho phép NHTM áp dụng chiến lược kinh doanh mạo hiểm, tức là chấp nhận mức rủi ro cao hơn nhưng khả năng sinh lời cũng cao hơn.

- Chỉ tiêu Vốn tự có/ Tài sản có rủi ro:

Vốn tự có * 100% Tài sản có rủi ro

Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số an toàn vốn bình quân. Theo Quyết định số 457 của NHNN về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD năm 2005, hệ số an toàn vốn bình quân phải duy trì tỷ lệ tối thiểu là 8%, đây cũng là tỷ lệ đạt chuẩn quốc tế. Chỉ tiêu này giúp nhà phân tích thấy được rằng, nguồn vốn tự có của NHTM cao đủ để bù đắp phần tài sản chịu rủi ro không. Nếu chỉ tiêu này quá thấp, dưới 3% thì NHTM đứng trước nguy cơ của sự phát triển không bền vững do phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tiền huy động bên ngoài. Hệ số an toàn vốn còn quan trọng ở chỗ, nó là thước đo cơ bản để nhà quản lý đánh giá sự lành mạnh về tài chính của NHTM. Nếu một NHTM bị NHTW đánh giá là không đảm bảo vốn tự có thì NHTM này xem như không còn khả năng hoạt động bình thường và buộc phải đóng cửa.

- Dự phòng tài chính/ Nợ quá hạn:


Quỹ dự phòng tài chính * 100% Nợ quá hạn

Chỉ tiêu “Dự phòng tài chính/ Nợ quá hạn” phản ánh khả năng bù đắp các khoản thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình kinh doanh của NHTM. Để đảm bảo an toàn cho hoạt động của NHTM, tỷ lệ này nên ≥ 100%, theo đó, khi NHTM

gặp rủi ro tín dụng cao sẽ có quỹ dự phòng tài chính khắc phục, tránh tình trạng bất ổn về vốn kinh doanh cho NH hay khủng hoảng về tài chính.

3. Các phương pháp phân tích hiệu quả hoạt động của NHTM


3.1 Phương pháp so sánh

So sánh là phương pháp sử dụng phổ biến trong phân tích và thường được thực hiện ở bước khởi đầu của việc phân tích, đánh giá. Thông thường, mỗi chỉ tiêu phản ánh một mặt, một khía nào đó của hoạt động kinh doanh NHTM. Bởi vậy trong đánh giá hoạt động kinh doanh của một NHTM, nhà phân tích thường sử dụng phép so sánh giữa chỉ tiêu này với các chỉ tiêu khác nhằm đánh giá mức độ thực hiện mục tiêu mà đơn vị đã đề ra hoặc đánh giá tốc độ phát triển của hoạt động kinh doanh giữa kỳ này với các kỳ trước đó.

Việc so sánh các chỉ tiêu còn nhằm mục đích đánh giá sự tiến bộ hay lạc hậu của một mặt hoạt động cụ thể so với hoạt động chung của NHTM hay hoạt động của NH mình so với chỉ tiêu chung của ngành.

Tuy nhiên, để thực hiện được việc so sánh, trước nhất cần đảm bảo tính có thể so sánh được của các chỉ tiêu so sánh. Điều đó có nghĩa là hai chỉ tiêu đưa ra so sánh phải đảm bảo tính đồng nhất về nội dung kinh tế, thống nhất về phương pháp tính toán, cùng đơn vị đo lường và thông tin cần phải được thu nhập trong một đơn vị thời gian.

3.2 Phương pháp phân tổ

Phân tổ là phân chia chỉ tiêu kinh tế tổng hợp thành nhiều chỉ tiêu bộ phận, nhiều chỉ tiêu chi tiết theo những tiêu thức nhất định. Tùy theo mục đích phân tích đánh giá, nhà phân tích có thể phân chia chỉ tiêu kinh tế theo tiêu thức thời gian, theo địa điểm phát sinh hoặc cũng có thể theo yếu tố cấu thành nên chỉ tiêu đó.

Ví dụ, khi phân tích chỉ tiêu nợ quá hạn (nợ xấu) của NHTM, có thể phân chia nợ quá hạn theo thời gian:

- nợ quá hạn dưới 90 ngày

- nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày

- nợ quá hạn từ 180 đến 360 ngày cũng có thể phân chia nợ xấu theo không gian:

- nợ quá hạn thị trường 1 (thị trường quan hệ với khách hàng)

- nợ quá hạn thị trường 2 (thị trường liên NH)

Mỗi tiêu thức phân chia có thể giúp cho nhà phân tích nhìn nhận hiện tượng kinh tế dưới các góc độ khác nhau. Nếu sự phân chia theo thời gian giúp ta thấy được xu hướng phát triển, quy luật vận động của hiện tượng kinh tế, thì sự phân chia theo địa điểm phát sinh có thể cho ta thấy được nguồn gốc hình thành của chúng, từ đó có những biện pháp quản lý hiệu quả hơn.

Sự phân chia chỉ tiêu theo những yếu tố cấu thành nên nó sẽ giúp nhà phân tích thấy được kết cấu của hiện tượng kinh tế, sự biến động của từng bộ phận tác động đến sự biến động chung của hiện tượng như thế nào.

3.3 Phương pháp tỷ lệ

Là phương pháp thể hiện mối quan hệ giữa chỉ tiêu này với một chỉ tiêu khác. Tất nhiên, một tỷ lệ chỉ có ý nghĩa khi các yếu tố cấu thành nên nó phải thể hiện một mối quan hệ có ý nghĩa. Chẳng hạn như: nợ quá hạn/ tổng dư nợ; tài sản cố định/ tổng tài sản; lợi nhuận/ thu nhập...

Bản chất của phương pháp phân tích tỷ lệ là việc thực hiện so sánh giữa các tỷ lệ. Sự so sánh các tỷ lệ chỉ có ý nghĩa khi ta thực hiện:

- so sánh giữa các chỉ tiêu giống nhau của các NHTM có cùng quy mô

- so sánh giữa chỉ tiêu của NHTM với hệ số chung của ngành (để chọn ra những NHTM tối ưu)

- hay giữa những chỉ tiêu của cùng một NHTM nhưng ở những thời kỳ khác nhau (nhằm thấy được sự tăng trưởng của bản thân NHTM)...

Tuy nhiên sự phân tích tỷ lệ chủ yếu dựa vào số liệu quá khứ, do đó nó chỉ cho biết tình hình hoạt động đã qua của doanh nghiệp, nhà phân tích chỉ có thể

dự đoán phần nào tình hình tương lai của doanh nghiệp. Mặt khác, do các tỷ lệ luôn được cấu thành từ hai thành phần là tử số và mẫu số nên độ lớn của tỷ lệ chỉ phụ thuộc vào quan hệ tương đối giữa hai thành phần này.

Đặc biệt là, phân tích tỷ lệ chỉ phản ánh được hiện tượng tốt hay xấu chứ không nêu lên được nguyên nhân của hiện tượng đó.

3.4 Phương pháp Dupont

Phương pháp này được sử dụng lần đầu tiên tại Mỹ bởi công ty Dupont 4 trong mô hình sinh lời của vốn chủ sở hữu - ROE, chính vì thế mà nó có tên gọi là phương pháp Dupont 5.

Phương pháp Dupont là phương pháp phân tích nhằm đánh giá sự tác động tương hỗ giữa các chỉ tiêu. ý tưởng chủ đạo của phương pháp Dupont là phân tích một tỷ lệ sơ cấp (phản ánh hiện tượng) thành các tỷ lệ thứ cấp (phản ánh nguyên nhân), rồi tỷ lệ thứ cấp mới lại trở thành một tỷ lệ sơ cấp cho một sự phân tích tiếp theo.

Cứ như vậy, người ta có một chuỗi các tỷ lệ quan hệ nhân quả với nhau. Sự thay đổi của tỷ lệ sau là nguyên nhân gây ra sự thay đổi của tỷ lệ trước. Nhờ vậy phương pháp Dupont đã giúp cho nhà phân tích tiếp cận được với các nguyên nhân gây nên sự biến đổi của hiện tượng kinh tế và có cái nhìn tổng quan, sâu sắc về hiện tượng nghiên cứu.


Sơ đồ 1: Mô hình chỉ tiêu sinh lời của vốn (ROE) theo phương pháp Dupont 6


4 Dupont company là công ty thuộc một dòng họ nổi tiếng lâu đời - E.I.Dupont de Nemours ở Wilmington, USA. Là một trong 100 công ty lớn nhất của Mỹ, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực: dầu khí, hóa chất, sợi, nhựa tổng hợpDoanh số hàng năm trên dưới 50 tỉ đô la và nộp thuế cho ngân sách chính phủ hàng tỉ đô la mỗi năm. Có người ví von rằng: Wilmington là thủ đô của gia đình E.I.Dupont de Nemours.

5 Nguyễn Tấn Bình (2004), Phân tích hoạt động doanh nghiệp, NXB Thống Kê, tr 212 - 224

6 Nguyễn Tấn Bình (2004), Phân tích hoạt động doanh nghiệp, NXB Thống Kê, tr 224


ROE

Lãi ròng/ vốn chủ sở hữu

Thừa số đòn bẩy

Tài sản có/Vốn chủ sở hữu


ROR

Lãi ròng/ Doanh thu

Lãi ròng/ Lãi trước thuế

Lãi trước thuế/ Doanh thu

Vòng quay vốn

Doanh thu/ Tài

Vòng quay tài sản cố định

Vòng quay hàng tồn kho

Vòng quay tài sản phải thu


ROA

Lãi ròng/ tài sản có

Ngoài các phương pháp trên, phân tích chỉ tiêu phản ánh hoạt động kinh doanh của các NHTM còn sử dụng nhiều phương pháp khác như: phương pháp cân đối, phương pháp biểu đồ...

Xem tất cả 62 trang.

Ngày đăng: 16/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí