Chợ xa thiếu vị dâng mời; Nhà nghèo, chỉ có rượu ôi lâu ngày. Với ông hàng xóm cùng say, Gọi đem hết rượu ra ngay bên rào.
Bài này đầy không khí cuộc sống, đầy tình cảm nhân tính. Ngày thường lối nhỏ vào nhà vương rụng đầy hoa. Hôm nay vì đón khách mới quét dọn sạch sẽ để thể hiện sâu sắc sự giản dị, tính cách thanh bần và hiếu khách.
郭 | 軒 | 楹 | 敞 | |
無 | 村 | 眺 | 望 | 賒 |
澄 | 江 | 平 | 少 | 岸 |
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Hợp Nguyệt + V Hoặc ( V + Nguyệt)
- Bước Đầu Nhận Xét Về Kết Hợp Khác Nhau Của Các Từ Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt.
- Chiến Tranh - Thời Kỳ Ở Trường An
- Bước đầu khảo sát những đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá hai dân tộc Hán - Việt qua các hình ảnh Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt trong những bài thơ Đỗ Phủ (Trung Quốc) và Nguyễn Trãi (Việt Nam) - 10
- Bước đầu khảo sát những đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá hai dân tộc Hán - Việt qua các hình ảnh Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt trong những bài thơ Đỗ Phủ (Trung Quốc) và Nguyễn Trãi (Việt Nam) - 11
- Bước đầu khảo sát những đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá hai dân tộc Hán - Việt qua các hình ảnh Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt trong những bài thơ Đỗ Phủ (Trung Quốc) và Nguyễn Trãi (Việt Nam) - 12
Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.
幽 樹 晚多 花
細 雨 魚 兒 出
微 風 燕 子 斜
城 中 十 萬 戶
此 地 兩 三 家 (Thủy Hạm Khiển Tâm)
Khứ | quách | hiên | doanh | xưởng | |
Vô | thôn | thiếu | vọng | xa | |
Trừng | giang | bình | thiểu | ngạn | |
U | thụ | vãn | đa | hoa | |
Tế | vũ | ngư | nhi | xuất | |
Vi | phong | yến | tử | tà | |
Thành | trung | thập | vạn | hộ | |
Thử | địa | lưỡng | tam | gia |
Dịch nghĩa: Ở xa ven đô nên hàng hiên [tha hồ] làm rộng Không có xóm làng [ở gần] nên tầm nhìn rất xa
Sông nước trong và lặng sóng nên ít [có đắp] bờ Cây tốt tươi, đến chiều [tỏa hương thơm] như có nhiều hoa
Mưa nhỏ, cá phóng mình khỏi nước Gió nhẹ, chim én bay xéo Trong đô thành có mười vạn hộ khẩu Chỗ này chỉ có hai ba căn nhà.
Những hình ảnh thiên nhiên“hoa” cùng “mưa” “chim” đã khắc họa một bức tranh mùa xuân, thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu mùa xuân của tác giả.
3.2. Thơ Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi không những vừa là nhân chứng cho những biến động bão táp của lịch sử Việt Nam thế kỷ XV mà còn vừa là người tham gia trực tiếp vào những biến động đó. Cuộc đời ông, giống như Đỗ Phủ, cũng là một cuộc đời đầy bão táp, thăng trầm. Cho nên, thơ ông thể hiện rõ một vốn sống từng trải, một suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời đầy phức tạp và một tình cảm nhân hậu đối với thiên nhiên, con người. Theo truyền thống thi ca trung đại như cách nói của Hồ Chí Minh “cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ”,
thơ của Nguyễn Trãi dành một số lượng lớn viết về thiên nhiên. Thiên nhiên gắn với cuộc đời thăng trầm đầy bi kịch của ông, soi chiếu tâm tư của chính nhà thơ trong những hoàn cảnh khác nhau. Dưới đây chúng tôi sẽ chia những bài thơ chữ Hán (có hình ảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt) của ông
thành 3 thời kz để tìm hiểu sâu sắc hơn những cung bậc tình cảm trong sáng tác của Nguyễn Trãi.
3.2.1 Thơ làm trong khi chưa thành công
Nguyễn Trãi sống trong thời đại Nhà Trần suy vong, đầy những biến động. Hồ Qu{ Ly lên thay, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu. Tuổi thơ sống trong tình cảnh thanh bần nhưng ông vẫn quyết chí gắng công học tập. Ông nổi tiếng là người học rộng, có kiến thức về nhiều lĩnh vực, có { thức về nghĩa vụ của một Nho sĩ yêu nước thương dân. Ví dụ
兵餘親戚半離零,萬死殘軀偶一生。往事空成槐國夢,別懷誰寫渭楊情。不來自擬同王式,避亂終當學管寧。
欲問相思愁別處, 孤齋風雨夜三更。(K{ cữu Dịch Trai Trần Công)
Phiên âm: Binh dư thân thích bán ly linh, Vạn tử tàn khu
ngẫu
nhất sinh.
Vãng sự không thành Hoè quốc mộng, Biệt hoài
thuz tả Vị Dương tình.
Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức, Tỵ loạn chung
đương học Quản Ninh.
Dục vấn tương tư sầu biệt xứ, Cô trai phong vũ dạ tam canh.
Dịch nghĩa: Sau loạn, bà con mất nửa phần,Nạn nhiều, sống
sót,
quả thiên ân
Chuyện qua nào khác mơ Hòe quốc ,Đất Vị đành
đau nỗi cách phân
Vương Thức từng ngưng lời trực gián ,Quản Ninh
mưa
đà dạy chước an thân
Mối sầu tự dỗ nơi xa xứ ,Phòng quạnh, đem
gió chuyển vần.
“Cô trai phong vũ dạ tam canh” khiến một đêm
sầu
buồn lại thêm sầu.
Từ hoa trong thơ ông thời kz này vẫn là hoa buồn:
一從淪洛他鄉去, 屈指清明幾度過。千里墳塋違拜掃, 十年親舊盡消磨。乍晴天氣模稜雨, 過半春光廝句花。
聊把一杯還自彊, 莫教日日苦思家。( Thanh minh)
Phiên âm: Nhất tòng luân lạc tha hương khứ, Khuất chỉ
thanh
minh kỷ độ qua.
Thiên l{ phần doanh vi bái tảo, Thập niên thân cựu
tẫn tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ, Quá bán xuân quang tê
cú hoa.
Liên bả nhất bôi hoàn tự cuỡng, Mạc giao nhật nhật
khổ tư gia
Dịch nghĩa: Luân lạc từ khi ra đất khách, Thanh minh tính đã
mười
trải bao hồi.
Mả mồ nghìn dặm khôn thăm viếng, Thân cựu
năm thảy rụng rơi.
Chợt tạnh mưa rào đương tiết dấy, Nở hoa tê cú
nhớ
nửa xuân rồi.
Khuây nâng một chén còn nên gượng, Đừng để
nhà khổ chẳng thôi.
“Quá bán xuân quang tê cú hoa”. Mùa xuân đã đến, trăm sắc hoa khoe nở. Tác giả đã quan sát tỉ mỉ để vẽ lên cảnh mùa xuân. Nhưng ông vẫn buồn. Từ nguyệt hình như cũng vậy, Ví dụ:
滿江何處響東丁,夜月偏驚久客情。一種蕭關征婦怨,
總將離恨入秋聲。(Thôn xá thu châm)
Phiên âm: Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh,
Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình. Nhất chủng Tiêu quan chinh phụ oán,
Tổng tương ly hận nhập thu thanh. Dịch nghĩa: Tiếng chày đâu dội khắp trên sông,
Xa xứ đêm trăng khách chạnh lòng Hay ải Tiêu quan chinh phụ khóc,
Tiếng thu lời ly hận hòa chung ?
“Trăng” gây nối nhớ thương của người, nhất là đối với người xa nhà.
Hay như:
神州一自起干戈, 萬姓嗷嗷可奈何。子美孤忠唐日月, 伯仁雙淚晉山河。年來變故侵人老, 秋越他鄉感客多。
卅載虛名安用處, 回頭萬事付南柯。(Loạn hậu cảm tác )
Phiên âm: Thần châu nhất tự khởi can qua,
Vạn tính ngao ngao khả nại hà.
Tử Mỹ cô trung Đường nhật nguyệt, Bá Nhân song lệ Tấn sơn hà.
Niên lai biến cố xâm nhân lão, Thu việt tha hương cảm khách đa. Tạp tải hư danh an dụng xứ,
Hồi đầu vạn sự phó Nam Kha
Dịch nghĩa: Thần Châu từ độ nổi can qua, Lầm cát nhân dân chốn chốn nao
Tử Mỹ lo Đường lòng quặn héo, Bá Nhân thương
Tấn lệ tuôn trào
Già người: Đời tiếp tang thương đến, Não khách:
muôn
Thu đưa cảm hận vào
Ba chục năm trời danh tiếng hão, Ngoảnh đầu
việc tựa chiêm bao.
Những câu thơ “Tử Mỹ lo Đường lòng quặn héo, Bá Nhân thương Tấn lệ tuôn trào” mà ông viết thể hiện nỗi buồn trước lẽ hưng phế, đọng lại những hình ảnh hoài niệm về các triều đại đã qua. Dù cho đó là cảnh đã bao nhiêu lần thưởng ngoạn thì thơ ông vẫn tạo được những rung động khác
thường.
3.2.2. Thơ làm sau khi kháng chiến thành công và làm quan ở triều
Vì có đại công trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi được liệt vào hàng đại phu chuyên coi sóc các việc chính trị và quản công việc ở Viện Khu mật. Những ngày thề quyết thắng trong kháng chiến, những mặn ngọt có nhau, vào sinh ra tử biết bao ước vọng để tái tục một đất nước thanh bình
thịnh trị. Từ phong của thơ ông giai đoạn này thể hiện phí phách của ông. Ví dụ:
朔風吹海氣凌凌,輕起吟帆過白藤。鱷斷鯨刳山曲曲,戈沉戟折岸層層。關河百二由天設,豪傑功名此地曾。往事回頭嗟已矣,
臨流撫影意難勝。( Bạch Ðằng hải khẩu)
Phiên âm: Sóc phong xung hải khí lăng lăng, Khinh khởi ngâm
kích
phàm quá Bạch Ðằng
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc, Qua trầm
danh
chiết ngạn tằng tằng.
Quan hà bách nhị do thiên thiết, Hào kiệt công