Chiến Tranh - Thời Kỳ Ở Trường An

thơ miêu tả cuộc sống du ngoan săn bắn. Đây là bài thơ ông sáng tác ở năm 741, khi Đỗ Phủ đang ngao du tại Kỳ Triệu.

Cũng theo bối cảnh đó, chúng ta có thể biết Đỗ Phủ đã từng có một cuộc sống hạnh phúc như thơ ông nói: “Phóng dãng Tề Triệu gian, Cửu mã phả thanh cuồng (Tề Triệu thong dong dạo, Sướng điên, sạch áo cương.)”. Lúc đấy nhà Đường đang thời giàu mạnh thịnh vượng, cho nên buổi đêm như thế khiến ông vui vẻ vô cùng. Thời kỳ này, Đỗ Phủ vẫn trẻ trung, ít tiếp xúc với xã hội và nối đau khổ của người dân. Tác phẩm nổi tiếng của ông cũng ít, phần lớn là những tác phẩm viết về các cuộc du ngoạn và săn bắn.

“Phong”, “nguyệt”, “hoa” đã thể hiện lên như một cảnh êm đềm hài hòa, mang lại các vẻ đẹp tự nhiên và trong lành.

3.1.2. Chiến tranh - Thời kỳ ở Trường An

Loạn An Lộc Sơn xảy ra vào tháng 12 - 755 và kết thúc tám năm sau đó. Nó tàn phá xã hội Trung Quốc rất dã man. Năm 754 nước này có 52.9 triệu người, nhưng tới năm 764 chỉ còn lại 16.9 triệu. Số còn lại đã bị giết hoặc bị dời đi. Trong thời gian này, Đỗ Phủ trải qua một cuộc sống trôi nổi, không thể định cư lâu dài ở đâu vì chiến tranh, vì nạn đói và sự bạc đãi của

triều đình. Tuy nhiên, nhờ thời gian không hạnh phúc này khiến Đỗ Phủ trở thành một nhà thơ đồng cảm với những đau khổ, bất hạnh của người dân thường. Thực tế xung quanh, cuộc sống của gia đình ông, những người hàng xóm, những người qua đường, những điều ông nghe thấy và những gì ông hy vọng hay sợ hãi về tương lai đã trở thành chủ đề chính trong những sáng tác của ông. Thời kỳ này Đỗ Phủ có khoảng 140 bài.

Năm 755, trên đường đi huyện Phùng Tiên thăm vợ, khi loạn An Lộc

Sơnđã bắt đầu, Đỗ Phủ bị loạn quân bắt và đưa về Trường An. Nửa năm ở Trường An, Đỗ phủ đã thấy được sự thê lương của thủ đô. Lúc đấy, trong

lòng ông phong, hoa, tuyết, nguyệt những hình ảnh tự nhiên này đã không còn đẹp đẽ, mơ mộng mà chất chứa đầy bi thương.

今夜鄜州月,閨中只獨看。遙憐小兒女,未解憶長安。香霧雲鬟濕,清輝玉臂寒。何時倚虛幌,

雙照淚痕乾? (Nguyệt dạ)

Phiên âm: Kim dạ Phu Châu nguyệt, Khuê trung chỉ độc khan. Dao liên tiểu nhi nữ, Vị giải ức Trường An. Hương vụ vân hoàn thấp, Thanh huy ngọc tý hàn. Hà thời ỷ hư hoảng, Song chiếu lệ ngân can ?

Dịch nghĩa: Đêm nay Phu Châu sáng,

Mình em ngắm trăng khuya. Nỗi nhớ Trường An ấy, Thương con chửa biết gì.

Sương thơm làn tóc đẫm,

Ánh lạnh cánh tay tê. Bao nữa cùng soi bóng,

Đôi mình ngấn lệ se.

Bài này sáng tác vào năm 756 khi Đỗ phủ đã bị lính của An Lộc Sơn bắt. Nhân dịp tết Trung Thu, trong đêm trăng nhớ vợ và con thơ còn ở lại Phù Châu, ông đã xúc động viết dòng thơ này. Nguyệt lúc này mang tình nhớ thương.

朝進東門營, 暮上河陽橋。落日照大旗, 馬鳴風蕭蕭。平沙列萬幕, 部伍各見招。中天懸明月, 令嚴夜寂寥。悲笳數聲動, 壯士慘不驕。

借問大將誰, 恐是霍嫖姚。(Hậu xuất tái kz 2)



kiều.

Phiên âm: Triêu tiến Đông Môn doanh, Mộ thượng Hà Dương


Lạc nhật chiếu đại kz, Mã minh phong tiêu tiêu. Bình sa liệt vạn mạc, Bộ ngũ các kiến chiêu.

Trung thiên huyền minh nguyệt, Lệnh nghiêm dạ tịch liêu. Bi già sổ thanh động, Tráng sĩ thảm bất kiêu.

Tá vấn đại tướng thuz, Khủng thị Hoắc Phiêu diêu.


Dịch nghĩa: Doanh Đông Môn buổi sáng, Cầu Hà Dương buổi chiều.

Bóng xế soi cờ đỏ, Ngựa hí gió hiu hiu.

Cát bằng đóng muôn trại, Quân nào trại ấy theo. Lệnh nghiêm đêm lặng lẽ, Trăng sáng giữa trời treo.

Đôi tiếng kèn bi trỗi, Tráng sĩ cùng buồn theo.

Đại tướng là ai đó, E là Hoắc Phiêu diêu.


Những bài thơ trên được sáng tác trong thời kz ông ở Trường An. Đối mặt với cuộc sống, một mặt là sự kiêu dâm của quyền qu{, một mặt là sự đau khổ của nhân dân. Đỗ Phủ đã làm những bài thơ đầy tính phê phán. Ví dụ: “Chu môn tửu nhục xú, lộ hữu đóng tử cốt" (Dịch nghĩa: Ở những nhà

giàu sang phú qu{, của ngon vật lạ ăn không hết) trong khi những người nghèo khó thì lại đói rét mà chết, để hình dung sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội. phong, hoa, tuyết, nguyệt đã không còn đẹp đẽ mà chất chứa đầy bi thương.

Bài thơ “Hấu xuất tái” đã miêu tả rõ doanh trại quân đội, một cảnh vừa có tiếng vừa có sắc. Tiếng là tiếng gió thổi ảm đạm, tiếng ngựa hí, tiếng kèn. Sắc là trời xế, lá cờ, trăng sáng (nhưng mang tình cảm lạnh toát người). Tiếng kèn bi lương thể hiện sự thê lương của hoàn cảnh sống lúc bấy giờ.

Thời kz này, loạn An Lộc Sơn diễn ra một cách quyết liệt, đất nước gặp nhiều khó khăn, nhân dân nghèo khổ, Đỗ Phủ cũng trải qua nhiều gian khổ.

國破山河在, 城春草木深。感時花濺, 恨別鳥驚心。烽火連三月, 家書抵萬金。

白頭搔更短, 渾欲不勝簪。(Xuân vọng)


Phiên âm: Quốc phá sơn hà tại, Thành xuân thảo mộc thâm.

Cảm thì hoa tiễn lệ, Hận biệt điểu kinh tâm.

Phong hoả liên tam nguyệt, Gia thư để vạn kim. Bạch đầu tao cánh đoản, Hồn dục bất thăng trâm.



chồng

Dịch nghĩa: Nước mất, còn sông núi, Thành xuân cỏ chất


Hoa thương thời nhỏ lệ, Chim giận biệt đau lòng Khói lửa liền ba tháng, Thư quê đáng vạn đồng Bạc đầu cùn mái tóc,Trâm bạc khó cài xong


Bài này sáng tác vào năm 757. Đỗ Phủ đối diện với cảnh trước mặt sông núi vẫn còn nhưng nước đã bị phá, dù là mùa xuân nhưng đâu đâu cũng ảm đạm bi lương. Trải qua bạo loạn ông càng nhớ quê hương, cho nên thơ này đầy tình cảm đau thương và bi ai, kể cả “hoa” cũng biết khóc. Ở đây thực ra là nỗi niềm đau thương của nhà Đường.

戍鼓斷人行, 秋邊一雁聲。露從今夜白,是故明。有弟皆分散, 無家問死生。

寄書長不達, 況乃未休兵。(Nguyệt dạ ức xá đệ)



thanh.


biên

Phiên âm: Thú cổ đoạn nhân hành, Thu biên nhất nhạn


Lộ tòng kim dạ bạch, Nguyệt thị cố hương minh. Hữu đệ giai phân tán, Vô gia vấn tử sinh.

K{ thư trường bất đạt, Huống nãi vị hưu binh. Dịch nghĩa: Trống dồn dứt vết chân đi; Nhạn thu một tiếng


sáng


hỏi

thùy bi ai.

Ðêm nay sương trắng đã rơi, Quê xưa giờ vẫn


ngời bóng trăng.

Có em, đều đã chia tan; Không nhà mà đến


thăm mất còn.

Gửi thư, chẳng biết tới luôn, Huống chi chinh chiến nay còn

Trong cuộc Loạn An Lộc Sơn, Đỗ Phủ lang thang khắp nơi, trải qua một cuộc sống khốn khổ. Ông vừa lo nhà mình, vừa lo nước lo dân: “Nguyệt thị cố hương minh”. Thực ra cảnh này không còn là của tự nhiên mà đã nhập vào tình cảm chủ quan. Trên trái đất chỉ có một mặt trăng, cũng có

khác biệt gì, nhưng ở đây ông cứ nói trăng ở quê mình sáng sủa nhất. Thực ra chỉ là cảm giác tâm l{. Điều này càng thể hiện tâm trạng, nỗi nhớ quê hương da diết của ông. Bởi vì ánh trăng dễ làm người ta liên tưởng đến nhiều thứ, dễ khiến người ta nhớ đến quê hương, gia đình. Ở đây, tác giả gặp thời loạn, lại có một buổi đêm cô đơn, tự nhiên có một tình cảm đặc biệt trong thơ.

3.1.3. Giai đoạn III - Thành Đô


Năm 760 Đỗ Phủ tới Thành Đô(tỉnh Tứ Xuyênhiện nay) và sống trong năm năm tiếp theo. Mùa thu năm đó, ông rơi vào cảnh túng quẫn phải gửi

thơ tới những người quen biết để cầu xin giúp đỡ. Ông được Nghiêm Vũ, một người bạn và là đồng môn đang làm tổng trấn ở Thành Đô giúp đỡ. Dù

sao, đây vẫn là một trong những thời kz thanh bình và hạnh phúc của ông. Nhiều bài thơ sáng tác trong giai đoạn này miêu tả lại cuộc sống thanh bình trong "thảo đường". Năm 762 ông rời thành phố này để tránh một cuộc bạo loạn rồi quay lại vào mùa hè năm 764 và được chỉ định làm Kiểm hiệu công bộ viên ngoại lang, tham gia vào chiến dịch chống người Tây Tạng.

Thời gian này Đỗ Phủ sáng tác khoảng 540 tác phẩm . Ví dụ:


萬里橋西一草堂,百花潭水即淪浪。

含翠條娟娟净,雨裹紅蕖冉冉香。厚祿故人書斷絕,恒饑稚子色凄涼。欲填沟壑唯疏放,

自笑狂夫老更狂。(Cuồng phu)

Phiên âm: Vạn Lý kiều tây nhất thảo đường, Bách hoa đàm thủy tức Thương Lương. Phong hàm thúy tiểu quyên quyên tịnh, Vũ ấp hồng cừ nhiễm nhiễm hương. Hậu lộc cố nhân thư đoạn tuyệt, Hằng cơ trĩ tử sắc thê lương. Dục điền câu hác duy sơ phóng, Tự tiếu cuồng phu lão cánh cuồng.

Dịch nghĩa: Tây cầu Vạn Lý túp lều tranh Ðầm Bách sông Thương nước chảy quanh Gió quyện trúc xanh yên tĩnh lặng Mưa động hồ sen ngát hương thanh

giàu

sang


im

thư

tín

Con

thơ

thường

đói


mặt

tái

xanh



Dẫu muốn

vùi

thân

quen

phóng

túng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Bước đầu khảo sát những đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá hai dân tộc Hán - Việt qua các hình ảnh Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt trong những bài thơ Đỗ Phủ (Trung Quốc) và Nguyễn Trãi (Việt Nam) - 8

Bạn

Tự chế cười mình già ngông ngênh.

Bài thơ sáng tác vào năm 760 khi ông đã trải qua một cuộc sống đủ cay đắng ngọt bùi, cuối cùng cũng đã có một chỗ để an cư. Đỗ Phủ đã cảm thấy cuộc sống thoải mái dễ chịu hơn. Mưa phùn khiến hoa sen càng tươi đẹp, gió nhẹ đưa hương hoa thể hiện sự vui sướng trong lòng ông.

舍南舍北皆春水,

但見群鷗日日來。

花徑不曾緣客掃,蓬門今始為君開。盤飧市遠無兼味,樽酒家貧只舊醅。肯與鄰翁相對飲,

隔籬呼取盡餘杯。(Khách chí)

Phiên âm: Xá nam xá bắc giai xuân thuỷ, Ðản kiến quần âu nhật nhật lai. Hoa kiến bất tằng duyên khách tảo, Bồng môn kim thuỷ vị quân khai.

Bàn tôn thị viễn vô kiêm vị, Tôn tửu gia bần chỉ cựu phôi. Khẳng dữ lăng ông tương đối ẩm, Cách ly hô thủ tận dư bôi.

Dịch nghĩa: Nước xuân đầy rẫy bắc nam; Ngày ngày âu vẫn thường sang chơi nhà. Chưa vì khách quét lối hoa, Cửa bồng nay mới mở ra vì người.

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 26/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí