Bước đầu khảo sát những đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá hai dân tộc Hán - Việt qua các hình ảnh Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt trong những bài thơ Đỗ Phủ (Trung Quốc) và Nguyễn Trãi (Việt Nam) - 10

thử địa tằng.

Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ, Lâm lưu phủ ảnh { nan thăng.

Dịch nghĩa: Biển rung, gió bấc thổi băng băng, Nhẹ cất buồm



chìm

thơ lướt Bạch Ðằng.

Kình ngạc băm vằm non mấy khúc, Giáo gươm



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

công danh

gãy bãi bao tầng.

Bước đầu khảo sát những đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá hai dân tộc Hán - Việt qua các hình ảnh Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt trong những bài thơ Đỗ Phủ (Trung Quốc) và Nguyễn Trãi (Việt Nam) - 10

Quan hà hiểm yếu trời kia đặt, Hào kiệt



nhìn

đất ấy từng.

Việc cũ quay đầu, ôi vắng ngắt, Nhìn sông,


cảnh, nói sao chăng.


Bạch Đằng là dòng sông lịch sử oai hùng ở Việt Nam. Phong trong bài thơ là cảm hứnglịch sử, là niềm tự hào dân tộc. Bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, có ngôn ngữ cổ kính, trang trọng và hàm súc. Đây là bài thơ kiệt tác và sóc phong làm cho cho hồn thơ trang trọng hào hùng và tráng lệ, mãi mãi “lấp lánh sao Khuê”.

藍山自昔臥神龍,世事懸知在掌中。

大任有歸天啓聖,


昌期一遇虎生風。國讎洗盡千年恥,金匱終藏萬世功。整頓乾坤從此了,

世間那更數雄英。( Đề kiếm)


Phiên âm:

Lam Sơn tự tích ngoạ thần long, Thế sự huyền tri tại chưởng trung Ðại nhiệm hữu quy thiên khải thánh, Xương kz nhất ngộ hổ sinh

phong


Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ Kim quỹ, chung tàng vạn thế công Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu, Thế gian na cánh sổ anh hùng. Dịch nghĩa:

Lam Sơn ngày trước ẩn mây rồng, Huyền nhiệm trong tay đã biết

thông


Trọng trách trao người, trời báo thánh, Thịnh thời gặp lúc, hổ sinh phong

Quốc thù rửa sạch muôn năm nhục, Rương qu{ còn lưu vạn thế công

Chỉnh đốn càn khôn nay đã trọn ,Trên đời dễ có mấy anh hùng?


Hổ sinh phong” trong bài thơ này cũng là cảm hứnglịch sử, là niềm tự hào dân tộc, trang trọng hào hùng và tráng lệ.

奸臣賊子罪難容,到底終投憲網中。窮壤豈堪延喘息,大庭應已奏膚公。角聲萬里溪山月,旗腳千岩草木風。四海永清從此始,

榑桑早辨掛天弓。( Hạ tiệp kz 2)


Phiên âm:


Gian thần tặc tử tội nan dung, Đáo để chung đầu hiến võng trung.


Cùng nhưỡng khởi kham diên suyễn tức, Đại đình ưng dĩ tấu phu

công.


Giác thanh vạn l{ khê sơn nguyệt, Kz cước thiên nham thảo mộc phong.

Tứ hải vĩnh thanh tòng thử thỉ, Phù tang tảo biện quải thiên cung. Dịch nghĩa:

Ôi bầy tặc tử! Khó dung gian! Lưới pháp đành sa, đã sẵn giàn Tận đất tàn hơi, thân mãi rúc Về triều thắng trận tin đà loan

Dưới trăng núi, ốc rền khắp chốn Trong gió cây, cờ phất rỡ ràng Bốn bể từ nay yên lặng mãi Cung trời sớm mắc nhánh phù tang.

Nguyệt ở đây hoà quyện với vẻ đẹp đất nước. Nó rung động trước non nước mây trời, cỏ cây hoa lá. Trong bài thơ này, chúng ta có thể thấy được những cách kết hợp phong rất lạ. Bài trước là "hổ sinh phong" - khí thế mạnh mẽ, bài này là "thảo mộc phong" - gió thổi qua cỏ cây. Kết hợp độc đáo này của thơ ông đã đem đến sự mới lạ cho người đọc chữ Hán. Còn về từ hoa:

一心報國尚桓桓,小構茆亭且自寬。薇省退歸花影轉,金門夢覺漏聲殘。琴書雅趣真堪尚,

松菊歡盟亦未寒。

後樂想知終有意,


好將事業百年看。


(Thứ vận Trần thượng thư đề Nguyễn bố chánh thảo đường)


Phiên âm:


Nhất tâm báo quốc thượng hoàn hoàn, Tiểu cấu mao đình thả tự khoan.

Vi tỉnh thối quy hoa ảnh chuyển, Kim môn mộng giác lậu thanh tàn. Cầm thư nhã thú chân kham thượng, Tùng cúc hoan minh diệc vị hàn. Hậu lạc tưởng tri chung hữu {, Hảo tương sự nghiệp bách niên khan. Dịch nghĩa:

Báo quốc đã nguyền, chí vẫn theo, Nhà tranh một nếp thú tiêu tao Tan giờ vi tỉnh, hoa tàn mất ,Tỉnh mộng kim môn, hồ đã hao

Thú hưởng sách đàn lòng đáng chuộng ,Nguyện vui tùng cúc { chưa xao Giữ niềm "hậu lạc" chung là tốt ,Sự nghiệp đời, gương ấy hẳn cao.

Nguyễn Trãi đều thể hiện con người đầy cá tính của ông một cách rõ nét trước thiên nhiên. Quy hoa ảnh chuyển ở đây lộ rõ cốt cách thanh cao nhưng giản dị của Nguyễn Trãi. Bên cạnh những bài thơ với những biểu tượng thiên nhiên gắn với người quân tử như “tùng, trúc, cúc, mai” còn là những loài hoa cỏ rất bình thường nhưng lại toả ra phẩm chất của thi nhân

Nguyễn Trãi. Còn khi có cả phong, hoa, tuyết, nguyệt thì thơ ông rất đặc biệt. Nó là tính cách ngay thẳng, trong trắng, mạnh mẽ của ông.

豸冠峨峨面似鐵, 不獨愛梅兼愛。愛梅愛雪愛緣何? 愛緣愛雪梅清潔。天然梅雪自兩奇, 更添臺柏真三絕。羅浮仙子冰為魂, 頃刻能令瓊作屑。夜深琪樹碎玲瓏, 月戶風窗寒凜烈。若非風遞暗香來, 紛紛一色何由別。巡簷不怕玉樓寒, 銀海搖光更清徹。九重軫念及遐氓, 萬里錦衣遙駐節。

霜風捲地氣橫秋, 身在炎荒心魏闕。交南十月暖如春, 夢中只有花堪折。將心托物古有之, 高蠋深期蹈前哲。東坡謂竹不可無, 濂溪愛連亦有說。乾坤萬古一清致, 灞橋詩思西湖月。

( Đề Hoàng ngự sử Mai Tuyết hiên)


Phiên âm: Trãi quan nga nga diện tự thiết,

Bất độc ái mai kiêm ái tuyết. Ái mai ái tuyết ái duyên hà,

Ái duyên tuyết bạch mai thanh khiết. Thiên nhiên mai tuyết tự lưỡng kz, Cánh thiêm đài bách chân tam tuyệt. La Phù tiên tử băng vi hồn,

Khoảnh khắc năng linh quznh tác tiết. Dạ thâm kz thụ toái linh lung,

Nguyệt hộ phong song hàn lẫm liệt. Nhược phi phong đệ ám hương lai, Phân phân nhất sắc hà do biệt.

Tuần thiềm bất phạ ngọc lâu hàn,

Ngân hải dao quang cánh thanh triệt. Cửu trùng chẩn niệm cập hà manh, Vạn l{ cẩm y dao trú tiết.

Sương phong quyển địa khí hoành thu, Thân tại viêm hoang lâm nguỵ khuyết. Giao nam thập nguyệt noãn như xuân, Mộng trung chỉ hữu hoa kham chiết.

Tương tâm thác vật cổ hữu chi, Cao trục thâm kz đạo tiền triết. Đông Pha vị trúc bất khả vô, Liêm Khê ái liên diệc hữu thuyết.

Càn khôn vạn cổ nhất thanh trí, Bá Kiều thi tứ Tây Hồ nguyệt.

Dịch nghĩa: Mũ trãi cao cao gương mặt sắt

Yêu luôn tuyết, nào chỉ yêu mai Vì sao yêu không một mà hai?

Bởi tuyết trắng, còn mai thanh khiết Trang điểm bách đài quả tam tuyệt Hai loại trời cho vẻ thanh cao

Tỉnh dưới gốc mai tiên nữ còn đâu? Trong khoảnh khắc ngọc quznh tan tuyệt Cành ngọc khuya lung linh bách chiết

Gió song, trăng cửa lạnh khôn cùng Nhờ thoáng hương đưa ấm cõi lòng Một màu lan man khó phân biệt Lầu ngọc dạo thềm không ngại rét Lung linh ánh bạc giải ngân hà

Chín trùng xót cảnh dân phương xa Cờ mao tiết cẩm bào vạn l{

Nhuốm gió sương lòng tăng tiết khí

Hướng về Ngụy khuyết tự phương Nam Tháng mười Giao Chỉ ấm như xuân Trong mộng chỉ mai là đáng chiết

Vật qu{ lòng trao người cửu biệt Nền triết xưa quyết học nâng cao Với Đông Pha trúc khó thiếu nào Chẳng khác gì sen Liêm Khê thích

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/05/2022