a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Định nghĩa: Tổ chức đánh bạc là chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào. Gá bạc là chứa việc đánh bạc để thu tiền (tiền hồ)
Tội tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc cũng như
tội đánh bạc, là tội
Có thể bạn quan tâm!
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 245 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 246 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Một Trong Các Trường Hợp Sau Đây, Thì Bị Phạt Tù Từ Hai Năm Đến Bảy Năm:
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 250 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 4 Điều 250 Bộ Luật Hình Sự
- Tội Dụ Dỗ, Ép Buộc Hoặc Chứa Chấp Người Chưa Thành Niên Phạm Pháp
Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.
phạm đã được quy định rất sớm và đều gọi chung là tội “cờ bạc”, sau này mới tách ra các hành vi khác nhau: đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc nhưng vẫn quy định cùng trong một điều luật.
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội đánh bạc, tội tổ chức đánh
bạc hoặc gá bạc trong cùng một điều luật ( Điều 200). Bộ luật hình sự
năm 1999 quy định tội đánh bạc tại Điều 248 còn tội tổ hoặc gá bạc được quy định tại Điều 249.
chức đánh bạc
Tuy nhiên, hành vi tổ chức đánh bạc và hành vi gá bạc vẫn quy định trong cùng một điều luật. Vì vây, khi định tội phải tuỳ trường hợp mà định
tội là tội tổ chức đánh bạc hay tội gá bạc. Ví dụ: nếu chỉ có hành vi tổ
chức đánh bạc thì định tội là “tổ chức đánh bạc”, nếu chỉ có hành vi gá bạc thì định tội là “gá bạc” nếu có cả hành vi tổ chức đánh bạc và gá bạc thì định tội là “tổ chức đánh bạc và gá bạc” (thay liên từ hoặc bằng liên từ và), vì nếu định tội “tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” thì chưa xác định bị cáo phạm tội gì ?
Điều 249 Bộ luật hình sự năm 1999 được cấu tạo từ khoản 2 Điều 200 Bộ luật hình sự năm 1985 và có sửa đổi, bổ sung như sau:
Bổ sung tình tiết là yếu tố định tội, đó là: tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc “với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” thì mới cấu thành tội cấu thành đánh bạc hoặc gá bạc.
Bổ sung các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt và được quy
định tại điểm a và b khoản 2 của điều luật như: có tính chất chuyên
nghiệp; thu lợi bất chính lớn, rát lớn hoặc đặc biệt lớn.
Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính quy định tại khoản 1 của điều luật; hình phạt bổ sung được quy định trong cùng một điều luật và tăng mức phạt từ một triệu đến năm triệu lên từ năm triệu đến một trăm triệu và bổ sung hình phạt tịch thu toàn bộ tài sản mà Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định tịch thu một phần tài sản..
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Cũng tương tự như tội đánh bạc, chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật; người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp
quy định tại khoản nào của điều luật.
Nếu số tiền hoặc tài sản dùng để đánh bạc có giá trị không lớn thì
người có hành vi hành đánh bạc phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc và hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới là chủ thể của tội phạm này.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Cũng như đối với tội hành nghề mê tín, dị đoan và tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là tội xâm phạm đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội, vì cờ bạc nói chung và tổ chức hoặc gá bạc nói riêng cũng là một tệ nạn của xã hội.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Tội phạm này nhà làm luật quy định hai hành vi khách quan khác nhau nhưng lại có liên quan với nhau, đó là hành vi tổ chức đánh bạc và hành vi gá bạc.
Tổ chức đánh bạc là chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào. Khi xác định hành vi tổ chức đánh bạc cần phân biệt với trường hợp phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự và là yếu tố định khung hình phạt quy định tại một số điều luật. Hành vi tổ chức đánh bạc cũng tương tự như một số hành vi tổ chức phạm tội khác như: tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép quy định tại Điều 275 Bộ luật hình
sự. Tuy nhiên, đối với tội tổ chức đánh bạc thì người phạm tội phải tổ
chức ít nhất là từ hai người trở lên đánh bạc, vì việc đánh bạc phải có từ hai người trở lên mới đánh bạc được, không ai đánh bạc với chính mình cả.
Hành vi tổ chức đánh bạc là hành vi tổ chức việc đánh bạc, người
đánh bạc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc nhưng
cũng có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc nhưng
người tổ chức việc đánh bạc nếu đủ yếu tố cấu thành tội tổ chức đánh
bạc thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc.
Nếu người có hành vi tổ chức ra việc đánh bạc để thoả mãn việc đánh bạc của mình và cùng tham gia đánh bạc với những người mà mình tổ chức để đánh bạc thì người tổ chức đánh bạc chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc nếu có đủ dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc, mà
không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội tổ
chức đánh bạc. Ví dụ:
Hoàng Ng là con bạc thường xuyên đi đến nhà Vũ Mạnh Q đánh “ba cây” ăn tiền; ngày 15-6-2005 Ng đã bị Công an quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội phạt hành chính. Ngày 10-12-2004, vợ con của Ng về quê ngoại; ở nhà một mình, Ng rủ Vũ Mạnh Q, Bùi Quốc C và Đinh Trọng N đến nhà Ng để đánh bạc ăn tiền. Đánh được từ 9 giờ đến 14 giờ thì bị Công an phường bắt, thu trên chiếu bạc 5.000.000 đồng và các phương tiện dùng để đánh bạc. Trong trường hợp này, hành vi của Ng là hành vi tổ chức đánh bạc nhưng vì Ng tổ chức ra cuộc chơi bạc này là để mình cũng được đánh bạc nên Ng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
Gá bạc là dùng địa điểm (nhà ở, cửa hàng, khách sạn, phòng trọ, tầu, xe, thuyền, bè…) đang do mình quản lý sử dụng để cho người khác đánh
bạc thu tiền (tiền hồ). Hành vi gá bạc có nơi còn gọi là chứa gá bạc hoặc chứa bạc. Nếu chỉ căn cứ vào việc dùng địa điểm mà mình đang quản lý sử dụng cho người khác đánh bạc thì hành vi này tương tự như hành vi chứa
chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý quy định tại Điều 198 Bộ luật
hình sự. Tuy nhiên, hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý có thể lấy tiền hoặc không lấy tiền, còn hành vi gá bạc (chứa chấp việc đánh bạc) nhất thiết phải lấy tiền (tiền hồ) thì mới bị coi là gá bạc; nếu vì nể nang mà cho người khác dùng địa điểm đang do mình quản lý, sử dụng để đánh bạc thì không bị coi là gá bạc. Như vậy, dấu hiệu bắt buộc để xác định có hành vi gá bạc hay không là có thu tiền hồ hay không.
Người có hành vi gá bạc có thể đồng thời là người tổ chức đánh bạc, nhưng có thể người tổ chức đánh bạc và người gá bạc khác nhau.
Nếu người gá bạc mà còn cùng tham gia đánh bạc thì vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả tội đánh bạc nếu có đủ dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc.
b. Hậu quả
Cũng tương tự
như
đối với tội đánh bạc, nhà làm luật không quy
định hậu quả do hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc gây ra là yếu tố
định tội hoặc định khung hình phạt, nếu hậu quả do hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc gây ra cấu thành tội phạm độc lập thì người phạm tội còn bị truy cứu về các tội phạm tương ứng.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chỉ bị coi là tội phạm khi việc tổ chức hoặc gá bạc đó được xác định là với quy mô lớn. Nếu hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chưa được xác định là với quy mô lớn và người
phạm tội chưa
bị xử
phạt hành chính về
hành vi đánh bạc và hành vi tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc hoặc chưa bị kết án về một trong các tội này,
hoặc đã bị kết án về các tội phạm này nhưng đã được xoá án tích bị coi là phạm tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
thì chưa
Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây được xác định là “với quy mô lớn”:
- Tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ
mười
người đánh bạc trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên;
- Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; khi đánh bạc có phân công người canh gác, người phục vụ, có sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện như ô tô, xe máy, xe đạp, điện thoại... để trợ giúp cho việc đánh bạc;
- Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc trong cùng một lúc có giá trị từ mười triệu đồng trở lên.
- Người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc trường hợp chưa đến mức được hướng dẫn trên, nhưng nếu tổng số tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc có giá trị từ một triệu đồng đến dưới mười triệu đồng thì tuy họ
không phải chịu trách nhiệm hình sự về
“tội tổ
chức đánh bạc hoặc gá
bạc” nhưng họ bạc22.
phải chịu trách nhiệm hình sự
về đồng phạm tội đánh
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội tổ của mình là do cố ý.
chức đánh bạc hạơc gá bạc thực hiện hành vi
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thực hiện một hành vi khách quan và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ
tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt tiền; nếu người
phạm tội vừa tổ chức đánh bạc vừa gá bạc với quy mô lớn, vừa đã bị đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự
a. Có tính chất chuyên nghiệp
Tương tự như tội đánh bạc, phạm tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là nguồn sống chính cho mình.
b) Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
thì:
Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
- Thu lợi bất chính từ năm triệu đồng đến dưới mười lăm triệu đồng
là lớn;
- Thu lợi bất chính từ mười lăm triệu đồng đến dưới bốn mươi lăm triệu đồng là rất lớn;
- Thu lợi bất chính từ bốn mươi lăm triệu đồng trở lên là đặc biệt
lớn23.
c. Tái phạm nguy hiểm.
Tương tự
như
trường hợp tái phạm nguy hiểm đối với người
phạm tội đánh bạc, người phạm tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc
trường hợp tái phạm nguy hiểm là người đã bị kết án về tội rất nghiêm
trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại
phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
Như vậy, nếu một người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2 của điều luật và thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì họ phải
bị áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm c khoản 2
Điều 249 và tình tiết tương ứng mà họ thực hiện. Ví dụ: Trần Thị Tuyết Nh đã bị kết án về tội mua bán chất ma tuý thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích lại phạm tội tổ chức đánh bạc thuộc trường hợp thu lợi bất chính 20 triệu đồng, nên Trần Thị Tuyết Nh bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các điểm b và c khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật; nếu thu lợi bất chính chỉ thuộc trường hợp lớn và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng
mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt dưới ba
năm tù hoặc được chuyển sang hình phạt tiền; nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật; thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt
lớn, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự,
không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù.
3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội đánh bạc còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Khi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội đánh bạc cần chú ý: chỉ áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung nếu không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính.
Việc áp dụng hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản chỉ nên áp dụng đối với trường hợp người phạm tội thu lợi bất chính đặc biệt lớn, là người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chuyên nghiệp.
28. TỘI CHỨA CHẤP KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
HOẶC TIÊU THỤ
TÀI SẢN DO NGƯỜI
Điều 250. phạm tội mà có
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do người khác
1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm .
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp ;
c) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn;
d) Thu lợi bất chính lớn; đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm:
a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn;
b) Thu lợi bất chính rất lớn.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn;
b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.
Định nghĩa: Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm
tội mà có là hành vi của người biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có tuy không hứa hẹn trước nhưng vẫn cất giữ, bảo quản, sử dụng, mua bán, trao đổi.
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, là tội phạm đã được quy định tại Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ban hành ngày 21-10-1970.
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại Điều 201 nhưng phạm vi áp dụng rộng hơn so với hai pháp lệnh ban hành ngày 21-10-1970, không chỉ đối với tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân mà còn cả những tài sản khác và cũng không chỉ chứa chấp, tiêu thụ cho người phạm tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và người xâm phạm tài sản riêng của công dân mà cho tất cả các hành vi phạm tội.
So với Điều 201 Bộ luật hình sự năm 1985 và có sửa đổi, bổ sung như sau: