So với Điều 198 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 245 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội phạm này có những sửa đổi, bổ sung như sau:
Nếu khoản 1 Điều 198 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “người nào gây rối trật tự nơi công cộng” thì khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự
năm 1999 quy định “người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”. Việc sửa đổi, bổ sung này đã làm cho phạm vi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây rối trật tự công cộng giám đi nhiều.
Bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của Điều 245 Bộ luật hình sự năm 1999 mà khoản 2 của Điều 198 chưa quy định như: có tổ chức; gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc
gây đình trệ hoạt động công cộng; tái phạm nguy hiểm. Sửa đổi tình tiết
“lôi kéo, kích động người khác” thành tình tiết: “xúi dục người khác”
Có thể bạn quan tâm!
- Phạm Tội Gây Hậu Quả Rất Nghiêm Trọng Thì Bị Phạt Tù Từ Hai Năm Đến Bảy Năm.
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 242 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 2 Điều 243 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 246 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Một Trong Các Trường Hợp Sau Đây, Thì Bị Phạt Tù Từ Hai Năm Đến Bảy Năm:
- Người Phạm Tội Còn Có Thể Bị Phạt Tiền Từ Năm Triệu Đồng Đến Một Trăm Triệu Đồng, Tịch Thu Một Phần Hoặc Toàn Bộ Tài Sản.
Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.
Về hình phạt, khoản 1 Điều 197 Bộ luật hình sự năm 1985 có mức cao nhất của hình phạt cải tạo không giam giữ là một năm, còn khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự năm 1999 là hai năm; mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 198 là một năm còn khoản 2 Điều 245 là hai năm.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ
thể
của tội phạm này không phải chủ
thể
đặc biệt, chỉ
cần
người có hành vi vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Nếu hành vi gây rối trật tự công cộng chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng thì người có hành vi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người đó
đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội gây rối trật tự công cộng là tội xâm phạm đến an toàn công
cộng, đến các quy tắc, sinh hoạt, đi lại, làm việc, vui chơi…ở nơi công cộng.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối bằng nhiều phương thức
khác nhau như: tập trung đông người ở nơi công cộng gây náo động làm
mất trật tự
công cộng; đuổi đánh nhau, hò hét gây náo động
ở nơi công
cộng; đập phá các công trình ở nơi công cộng, đập phá các tài sản trong
các, quán ăn, quán giải khái có đông người. v.v…
Khi xác định hành vi gây rối trật tự cần phải phân biệt với hành vi tuy có gây rối trật tự công cộng nhưng đã cấu thành một tội khác thì người có hành vi gây rối chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng mà họ đã thực hiện, mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng. Ví dụ: Hai tốp thanh niên đuổi đánh nhau trong đó có Trần Văn H; trong khi đuổi đánh nhau, hò hét gây náo động đường
phố thì Trần Văn H đã dùng dao nhọn mang theo đâm chết Bùi Văn T là
một trong số thanh niên tham gia đánh nhau. Mặc dù Trần Văn H có hành vi gây rối trật tự công cộng nhưng từ việc gây rối mà H đã thực hiện hành vi giết người và tội giết người là tội phạm nặng hơn tội gây rối trật tự công cộng nên H chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người.
Nói chung, để
có thể
gây rối trật tự
công cộng thì phải có nhiều
người, nhưng không phải bao giờ
trong vụ
án gây rối trật tự
công cộng
cũng có người tham gia mà có thể chỉ do một người thực hiện. Ví dụ: Vũ Văn T là đối tượng đã có người tiền án, tiền sự. Ngày 7-11-2005, T cùng bạn gái vào rạp xem phim; trong lúc đang chiếu phim thì T lấy thuốc lá ra hút, mọi người xung quanh yêu cầu T tắt thuốc lá nhưng T không những
không nghe mà còn dở
thói côn đồ, chửi bới, lăng mạ
mọi người xung
quanh, gây mất trật tự trong rạp, buổi chiếu phim phải dừng lại để ổn định trật tự, đèn trong rạp bật sáng, mọi người nhận ra T là tên lưu manh đã có
nhiều tiền án, tiền sự; anh Phạm Văn H là người cùng phố với T đã đến khuyên T không nên có thái độ càn quấy ở trong rạp, nhưng T không nghe mà còn chửi anh H rất thậm tệ, rồi túm cổ áo anh H định đánh thì những
người làm nhiệm vụ
bảo vệ
trong rạp kịp thời tới can ngăn và đưa T ra
khỏi rạp. Do hành vi gây mất trật tự của T nên buổi chiếu phim bị giãn đoạn hơn 30 phút.
Thực tiễn xét xử cho thấy, đối với hành vi gây rối trật tự công cộng thường là hành vi khởi đầu cho những hành vi phạm tội khác kế tiếp như: giết người, cố ý gây thương tích, chống người thi hành công vụ, huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản… Tuy nhiên, cũng có trường hợp từ hành vi phạm tội khác mà dẫn đến hành vi gây rối trật tự công cộng như: tổ chức đua xe trái phép, đua xe trái phép, đánh bạc, vi phạm các quy định về điều
khiển phương giao thông đường bộ… Những người bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội gây rỗi trong các trường hợp này là người có liên
quan đến hành vi phạm tội khác nhưng vì không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm đó.
b. Hậu quả
Hậu quả của hành vi gây rối trật tự công cộng là thiệt hại vật chất và pơhi vật chất được xác định là nghiêm trọng cho xã hội.
Hậu quả vừa là dấu hiệu bắt buộc, vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
Là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội chưa bị xử phạt hành
chính về hành vi gây rối trật tự công cộng hoặc chưa bị kết án về tội này hoặc tuy đã bị kết án về tội này nhưng đã được xoá án tích.
Không phải là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Theo hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao thì coi là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi gây rối trật tự công cộng nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ ;
- Cản trở
sự hoạt động bình thường của cơ
quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên;
- Làm chết người hoặc gây thương tích
hoặc bị
tổn hại sức khoẻ
cho người khác với tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên.
- Gây cho nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với
tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật
của tất cả những người này từ 41% trở lên;
- Gây cho người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên;
- Gây cho nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với
tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật
của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.
- Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra có phải là nghiêm trọng hay không18.
Khi xác định hậu quả của hành vi phạm tội cần chú ý: có thể trong vụ án gây rối trật tự công cộng thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản đã là hậu quả của hành vi phạm tội khác và người phạm tội khác đó đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác nhưng vẫn được tính là hậu quả nghiêm trọng của hành vi gây rối để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi gây rối. Ví dụ: A, B, C và D vào quán của chị H uống bia hơi, trong khi uống bia A,B,C,D đã gây rối làm náo loạn quan bia, trong lúc gây rối, A đã lấy cốc và vỏ chai bia ném người khác làm hư hỏng tài sản của chị H trị giá 12 triệu đồng, còn C đã dùng dao đâm anh Q làm anh Q bị thương có tỷ lệ thương tật là 45%. Mặc dù trong vụ án này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác và C bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích nhưng thiệt hại về sức khoẻ của anh Q và thiệt hại về tài sản của chị H đều được tính để xác định hậu quả nghiêm trọng về hành vi gây rối của B và D.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
18 Nghị quyết số 02/2003 NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.
Ngoài hành vi, hậu quả do hành vi vi phạm gây ra, nhà làm luật
không quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, khi xác định hành vi phạm tội gây rối cần nghiên cứu các quy định của Nhà nước về các quy tắc về trật tự ở nơi công cộng.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng là do cố
ý.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự, thì người phạm
tội gây rối trật tự
công cộng thì có bị
phạt tiền từ
một triệu đồng đến
mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt tiền; nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến hai năm tù.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 245 Bộ luật hình sự
a. Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách.
- Dùng vũ khí khi thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng là dùng các loại vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn và vũ khí thô sơ theo Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành theo Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996 của Chính phủ) .
Vũ khí quân dụng là các loại súng trường, súng ngắn, súng liên thanh;
các loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hoá chất độc và
nguồn phóng xạ, các loại đạn; bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thuỷ lôi, vật
liệu nổ quân dụng, hoả cụ và vũ khí khác dùng cho mục đích quốc phòng- an ninh.
Vũ khí thể thao là các loại súng trường, súng ngắn thể thao chuyên
dùng các cỡ; các loại súng hơi, các loại vũ khí khác dùng trong luyện tập, thi đấu thể thao và các loại đạn dùng cho các loại súng thể thao nói trên.
Vũ khí thô sơ là dao găm, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại đao, mã tấu, quả đấm bằng kim loại hoặc chất cứng, cung, nỏ, côn các loại và các loại khác do Bộ Nội vụ ( nay là Bộ Công an) quy định.
- Có hành vi phá phách là trường hợp trong khi thực hiện hành vi gây rối, người phạm tội đã có hành vi đập phá tài sản nhưng thiệt hại về tài sản chưa đến mức cấu thành tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
của người khác. Nếu hành vi phá phách gây thiệt hại về tài sản đã cấu
thành tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này ngoài tội gây rối trật tự công cộng. Tuy nhiên, người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự, vì thiệt hại về tài sản do hành vi phá phách đã bị truy cứu về tội độc lập.
b. Có tổ chức.
Cũng như đối với các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, phạm tội gây rối trật tự công cộng có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý
cùng thực hiện một tội phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người
cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ người xúi dục, người giúp sức.
chức, người thực hành,
c. Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng.
- Gây cản trở giao thông nghiêm trọng là gây cản trở giao thông từ 2 giờ trở lên hoặc gây cản trở giao thông ở những tuyến giao thông quan trọng, làm ách tắc giao thông trên diện rộng (không phân biệt thời gian bao lâu)19
- Gây đình trệ hoạt động công cộng là trường hợp do hành vi gây rối mà hoạt động công cộng bị đình trệ như: phải tạm dừng buổi chiếu phim; phải tạm dừng trận thi đấu bóng đá, bóng chuyền hoặc các môn thể thao
19 Nghị quyết số 02/2003 NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.
khác; phải tạm dừng cuộc họp Hội đồng nhân dân.v.v… không phân biệt thời gian bị đình trệ dài hay ngắn.
d. Xúi giục người khác gây rối.
Xúi dục người khác gây rối là hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện hành vi gây rối. Tuy nhiên, hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện hành vi gây rối nhưng không thuộc trường
hợp phạm tội có tổ
chức với vai trò là người xúi dục trong vụ
án đồng
phạm. Tuy nhiên khi xác định hành vi xúi dục người khác gây rối cần phải chú ý:
Nếu việc xúi dục không liên quan trực triếp đến hành vi gây rối của Toà án cấp phúc thẩm thì không phải là người xúi dục người khác gây rối. Ví dụ: Bùi Thế H đi đón con ở trường về thấy hai tốp thanh niên đang đuổi đánh nhau trên đường Cát Linh, H liền hô: đánh bỏ mẹ nó đi ! nói xong, H chở con về nhà. Sau đó hai tốp thành niên vẫn đuổi đánh nhau làm náo động đường phố, ách tắc giao thông. Hành vi của H tuy có vẻ xúi dục người khác gây rối, nhưng không phải vì câu nói đó mà làm cho hai tốp thành niện mới có hành vi gây rối, không có câu nói này của H thì hai tốp thanh niên dã đuỏi đánh nhau rồi, dù H có hô hay không hô câu "đánh bỏ mẹ nó đi" thì cũng không làm thay đổi ý định tội phạm của só thanh niên này, nên không thể coi H là người xúi dục gây rối được.
đ. Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng.
Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng là trường hợp trong khi thực hiện hành vi gây rối, có người can ngăn hoặc yêu cầu chấm dứt hành vi gây rối nhưng người có hành vi gây rối chẳng những không
nghe mà còn có hành vi hành hung người can thiệp bảo vệ cộng.
trật tự
công
Khi xác định tình tiết này cần chú ý: nếu người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng là người đang thi hành công vụ, có nhiệm vụ bảo vệ trật tự nơi công cộng mà người phạm tội có hành vi hành hung đối với người này thì thuộc trường hợp chống người thi hành công vụ ; nếu gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người thi hành công vụ thì thuộc trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự.
e. Tái phạm nguy hiểm.
Là trường hợp người phạm tội bị
kết án
về tội rất nghiêm trọng,
tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, hoặc tái phạm, chưa được xoá án mà lại phạm tội do cố ý. Như vậy, đối với tội gây rối trật tự công cộng người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm chỉ có thể là người đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội gây rối trật tự công cộng, vì đối với tội phạm này không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì
người phạm tội có thể bị nghiêm trọng.
phạt tù từ
hai năm đến bảy năm, là tội phạm
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt dưới hai năm tù hoặc được chuyển sang hình phạt tiền; nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù.
24. TỘI XÂM PHẠM THI THỂ, MỒ MẢ, HÀI CỐT
Điều 246. Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt
1. Người nào đào, phá mồ mả, chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ hoặc có hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt, thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ hai năm.
ba tháng đến
2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
Định nghĩa: Xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt là hành vi đào, phá mồ mả, chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ hoặc có hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt.