Về cơ cấu, ngoài hình phạt bổ sung, Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 cấu tạo thành 4 khoản tương ứng với 4 khung hình phạt (Điều 201 có 3 khoản);
Bổ sung các tình tiết “tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn, đặc biệt lớn; thu lợi bất chính lớn, rất lớn, dặc biệt lớn” là yếu tố định khung hình phạt; bỏ tình tiết “tài sản, vật phạm pháp có số lượng lớn; phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” là yếu tố định khung hình phạt.
Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính quy định tại khoản 1 của điều luật và tăng mức hình phạt cải tạo không giam giữ lên ba năm; hình phạt bổ sung được quy định trong cùng một điều luật và tăng mức phạt từ một triệu đến năm triệu lên từ ba triệu đến ba mươi triệu và bổ sung hình phạt tịch thu toàn bộ tài sản mà Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định tịch thu một phần tài sản.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Có thể bạn quan tâm!
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 246 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Một Trong Các Trường Hợp Sau Đây, Thì Bị Phạt Tù Từ Hai Năm Đến Bảy Năm:
- Người Phạm Tội Còn Có Thể Bị Phạt Tiền Từ Năm Triệu Đồng Đến Một Trăm Triệu Đồng, Tịch Thu Một Phần Hoặc Toàn Bộ Tài Sản.
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 4 Điều 250 Bộ Luật Hình Sự
- Tội Dụ Dỗ, Ép Buộc Hoặc Chứa Chấp Người Chưa Thành Niên Phạm Pháp
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 253 Bộ Luật Hình Sự
Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.
Chủ thể của tội phạm này cũng không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
Người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 của điều luật; người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là tội xâm phạm đến trật tự quản lý Nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà có. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tội phạm này lại chủ yếu xâm phạm đến hoạt động điều tra, thu hồi tài sản có nguồn gốc do phạm tội mà có; nhiều trường hợp hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có đã gây ảnh hưởng đến việc điều tra phát hiện tội phạm, có trường hợp làm cho việc điều tra phát hiện bị bế tắc phải tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra vì không thu hồi được tài sản do phạm tội mà có. Vì vậy, theo ý kiến
này thì nhà làm luật nên quy định tội phạm này ở Chương XXII (các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp) sẽ phù hợp hơn. Hy vọng rằng, ý kiến này sẽ được xem xét khi có chủ trương sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự vào thời gian tới.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Tội phạm này nhà làm luật quy định hai hành vi phạm tội khác nhau nhưng lại có liên quan với nhau, đó là hành vi chứa chấp và hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Vì vậy, khi xác định tội danh (định tội) cần chú ý: nếu người phạm tội chỉ thực hiện hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có hoặc chỉ thực hiện hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì chỉ định tội “chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” hoặc tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” chứ không định tội như điều luật quy định “chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có” vì như vậy thì không biết người phạm tội phạm tội gì ? Nếu người phạm tội thực hiện cả hai hành vi chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì định tội là “chứa chấp và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có là trường hợp biết rõ đó là tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn cất giữ, bảo quản; việc cất giữ, bảo quản có thể ở bất cứ địa điểm nào; có trường hợp chỉ cất giữ trong túi áo, túi quần hoặc trong người. Nếu tài sản do người khác phạm tội mà có lại là đối tượng phạm tội của tội phạm khác thì người có hành vi chứa chấp tài sản đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng mà Bộ luật hình sự quy định đối với hành vi tàng trữ các loại tài sản đó. Ví dụ: Đào Thị L biết rõ Nguyễn Văn T trộm cắp được một gói thuốc phiện có trọng lượng là 0,5 kg. T nhờ L giữ hộ khi nào cần thì L sẽ lấy. Khi Cơ quan điều tra khám nhà L vì L có hành vi tổ chức đánh bạc thì phát hiện 0,5 kg thuốc phiện. L khai của T gửi. Hành vi cất giữ 0,5 kg thuốc phiện của Đào Thị L là hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng L không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là biết rõ đó là tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn nhận hoặc mua để dùng, nhận
để bán lại hoặc giới thiệu người khác mua, chuyển tài sản đó cho người khác theo yêu cầu của người phạm tội. v.v…Cũng như đối với trường hợp chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có, nếu người phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tài sản đó là đối tượng của tội phạm khác thì người có hành vi tiêu thụ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo quy định của Bộ luật hình sự. Ví dụ: Bùi Văn H là thủ kho vật liệu nổ của Công ty Z175 đã lấy thuốc nổ trong kho đem gạ bán cho Đỗ Trung Q. Q biết rõ thuốc nổ mà H gạ bán cho mình là thuốc nổ do H chiếm đoạt nhưng vẫn mua. Hành vi tiêu thụ thuốc nổ do H phạm tội mà có của Q sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “mua bán trái phép vật liệu nổ” quy định tại Điều 232 Bộ luật hình sự.
Dù là chứa chấp hay tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì người chứa chấp hoặc tiêu thụ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội phạm này nếu họ không hứa hẹn trước. Nếu người có hành vi chứa
chấp hoặc tiêu thụ có hứa hẹn trước với người phạm tội thì họ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự hình sự về tội phạm mà người phạm tội thực hiện để có tài sản mà họ chứa chấp hoặc tiêu thụ.
Việc xác định hành vi có hứa hẹn trước hay không hứa hẹn trước của người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong một số trường hợp rất khó. Trước năm 1989, người chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tuy không hứa hẹn trước
nhưng cứ chứa chấp hoặc tiêu thụ nhiều lần của một người phạm tội thì bị coi là đồng phạm với người phạm tội. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử việc xác định đồng phạm trong trường hợp này rõ ràng là không đúng nên Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn lại là: dù người có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà bao nhiêu lần nhưng không có hứa hẹn trước thì cũng không coi là đồng phạm với người khác do phạm tội mà có tài sản đó.
Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh người có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có phải là người không hứa hẹn trước với người khác do phạm tội mà có tài sản đó. Nếu có căn cứ xác định người có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có lại là người đã hứa hẹn trước với người khác do phạm tội mà có tài sản đó thì người có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó là đồng phạm cới người do phạm tội mà có tài sản đó (người khác phạm tội gì thì người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản phạm tội đó).
b. Hậu quả
Đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, nhà làm luật không quy định hậu quả do hành vi chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có gây ra là yếu tố định tội
hoặc định khung hình phạt. Tuy nhiên, nếu hậu quả do hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có gây ra cấu thành tội phạm độc lập thì người phạm tội còn bị truy cứu về các tội phạm tương ứng.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Đối với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nhà làm luật không quy định thêm các dấu hiệu khách quan khác là yếu tố cấu thành tội phạm hoặc là yếu tố định khung hình phạt. Tuy nhiên, khi xác định hành vi chứa chấp hạơc tiêu thụ trong một số trường hợp cần chú ý: nếu người khác tuy có hành vi phạm tội nhưng hành vi đó chưa tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì người có hành vi chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cũng chưa cấu thành tội
phạm. Ví dụ: Hồ Trung H tộm cắp được một chiếc xe đạp Trung Quốc trị giá 460.000 đồng đem bán cho Trần Thị D chuyên buôn bán xe đạp cũ lấy
200.000 đồng. D biết chiếc xe đạp mà H bán cho mình là do H trộm cắp nhưng vẫn mua. Sau một thời gian H bị bắt về hành vi trộm cắp xe máy, H khai đã bán cho D chiếc xe đạp trộm cắp trước đó. Cơ quan điều tra đến thu hồi chiếc xe đạp trả lại cho người mất nhưng không khởi tố Trần Thị D về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì nếu chỉ tính hành vi trộm cắp xe đạp của H thì chưa cấu thành tội phạm vì giá trị chiếc xe đạp chưa đến 500.000 đồng và trước khi H thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe đạp thì H cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản và hành vi trộm cắp chiếc xe đạp của H cũng chưa gây hậu quả nghiêm trọng.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài do người khác phạm tội mà có thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là biết rõ tài sản mà mình
chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài do người khác phạm tội mà có. Nếu vì một
lý do nào đó mà họ không biết thì hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản đó không bị coi là hành vi phạm tội.
Việc xác định người
chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài có biết rõ là do
người khác phạm tội mà có hay không là một vấn đề khó, vì họ không bao
giờ tự nhận là mình biết rõ tài sản mà họ chứa chấp hoặc tiêu thụ tài là tài sản do người khác phạm tội mà có và thường khai rằng, nếu biết đó là của gian thì không bao giờ cất giữ hoặc tiêu thụ cả. Vì vậy, để xác định người có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài có biết rõ là do người khác phạm tội mà có hay không phải căn cứ vào các tình tiết khách quan mà đặc biệt là nhân thân và mối quan hệ giữa họ với người có tài sản do phạm tội mà có. Thông thường để xác định người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản có biết rõ là tài sản đó do người khác phạm tội mà có hay không phải căn cứ vào việc giao dịch giữa người chứa chấp hoặc tiêu thụ với người có tài sản. Ví dụ: Lê Văn K biết Vũ Quốc H là con bạc đã nhiều lần đem xe đạp đến bán cho mình, K biết những chiếc xe đạp mà H bán cho mình là do đánh bạc mà có. Ngày 20-10-2005 Vũ Quốc H đem một chiếc xe máy đến nhờ K bán hộ; tuy không hỏi nhưng K biết rõ chiếc xe máy mà H nhờ mình bán hộ là do đánh bạc mà có nên nhận lời với H là cứ để đấy có ai mua sẽ bán hộ. Sau khi vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc bị phát hiện, theo lời khai của H, Cơ quan
điều tra đến thu hồi chiếc xe máy mà H nhờ
K bán hộ
thì K khai rằng
không biết xe do H phạm tội mà có. Tuy nhiên, căn cứ vào mối quan hệ giữa K và H, Cơ quan điều tra vẫn kết luận K biết rõ chiếc xe máy mà H nhờ K bán là tài sản do H phạm tội mà có.
Điều luật quy định “biết rõ là do người khác phạm tội mà có” nhưng không vì thế mà cho rằng, người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản phải biết người phạm tội là ai và họ phạm tội gì, mà chỉ cần biết rõ tài sản mà mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có. Nhà làm luật quy định “do người khác phạm tội” mà không quy định “do phạm tội” là bảo đảm tính chuẩn xác, vì nếu chỉ nói do phạm tội là chưa đủ vì hành vi phạm tội có thể do một tổ chức, cơ quan thực hiện nhưng theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam thì không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cơ quan, tổ chức. Vì vậy, nếu người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản không do người khác phạm tội mà có thì cũng không bị coi là hành vi phạm tội.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam
giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít
nghiêm trọng .
Khi quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết
giảm nhẹ
quy định tại Điều 46 Bộ
luật hình sự, không có tình tiết tăng
nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 250 Bộ luật hình sự
a. Có tổ chức.
Cũng như trường hợp phạm tội có tổ chức khác, phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có tổ chức là trường
hợp có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm,
trong đó có người tổ sức.
chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp
Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có tổ
chức thường được biểu hiện như: chuẩn bị
kho, bãi chứa hàng, tổ
chức
mạng lưới tiêu thụ, làm giả giấy tờ, mua hoá đơn, chứng từ, mua chuộc cán bộ có chức vụ, quyền hạn để tiêu thụ tài sản dễ dàng…
b. Có tính chất chuyên nghiệp.
Cũng tương tự như trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khác, chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là nguồn sống chính cho mình.
c. Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn.
Đây là trường hợp người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có mà tài sản mà họ chứa chấp hoặc tiêu thụ có giá trị lớn. Do chưa có hướng dẫn tài sản, vật phạm pháp có giá trị bao nhiêu thì được coi là lớn nên có thể tham khảo các quy định của Bộ luật
hình sự về các tội xâm phạm sở hữu để xác định tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn. Ví dụ: chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và tình tiết này được quy định trong cùng một khung hình phạt với tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng trong một số tội phạm xâm sở hữu nên có thể coi tài sản, vật phạm pháp có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng là tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn.
d. Thu lợi bất chính lớn.
Trường hợp phạm tội này có thể coi tương tự như trường hợp phạm tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thu lợi bất chính lớn nên có thể vận dụng
Nghị
quyết số
02/2003 NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn trường hợp thu lợi bất chính lớn đối với tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, cụ thể là: Thu lợi bất chính do hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có từ năm triệu đồng đến dưới mười lăm triệu đồng là thu lợi bất chính lớn.
đ. Tái phạm nguy hiểm.
Tương tự
như
trường hợp tái phạm nguy hiểm đối với người
phạm các tội khác, người phạm tội
chứa chấp hoặc tiêu thụ
tài sản do
người khác phạm tội mà có thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là
người đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do
cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 250 Bộ luật hình sự hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Như vậy, người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có thuộc trường hợp tai phạm nguy hiểm chỉ có thể là
trường hợp đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, vì nếu đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 250 Bộ
luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
khoản 3 của điều luật rồi.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì
người phạm tội có thể bị nghiêm trọng.
phạt tù từ
hai năm đến bảy năm, là tội phạm
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt dưới hai năm tù hoặc được chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ; nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình
sự, không có tình tiết giảm nhẹ
hoặc nếu có nhưng mức độ
giảm nhẹ
không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù.
3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 250 Bộ luật hình sự
a. Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ: tài sản, vật phạm pháp mà người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ có giá trị rất lớn.
Được coi là tài sản, vật phạm pháp mà người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ có giá trị rất lớn là trường hợp tài sản, vật phạm pháp mà người phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
b. Thu lợi bất chính rất lớn.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 của điều luật, chỉ khác ở chỗ: do chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có mà người phạm tội thu lợi bất chính rất lớn.
Được coi là thu lợi bất chính rất lớn do hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có từ mười lăm triệu đồng đến dưới bốn mươi lăm triệu đồng.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ năm năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.