Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 229 Bộ Luật Hình Sự

tổng tỷ lệ thương tật của nhiều người từ 31% trở lên thì cũng coi là gây

thiệt hại nghiêm trọng

cho sức khoẻ của người khác. Gây thiệt hại nghiêm

trọng cho tài sản của người khác là trường hợp gây thiệt hại về tài sản cho người khác có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.


c. Các dấu hiệu khách quan khác


Ngoài hành vi khách quan và hậu quả, điều luật còn quy định dấu hiệu khách quan khác, đó là: các quy định về xây dựng của Nhà nước và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 220 Bộ luật hình sự.


Các quy định về xây dựng của Nhà nước nói chung tương đối đa

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.

dạng, chủ yếu do Bộ Xây dựng ban hành; mỗi lĩnh vực xây dựng lại có quy định riêng. Vì vậy, khi xác định hành vi vi phạm quy định về xây dựng, các cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu kỹ các văn bản quy định về lĩnh vực đó, nếu thấy cần thiết phải trưng cầu giám định chuyên môn.


Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 9 - Đinh Văn Quế - 10

Phạm vi điều chỉnh của Điều 229 không bao gồm các hành vi vi phạm quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông quy định tại Điều 220 Bộ luật hình sự. Do đó, nếu người có hành vi vi phạm quy định về xây dựng nhưng đó là vi phạm về duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về xây dựng, mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông quy định tại Điều 220 Bộ luật hình sự.


4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm


Người thực hiện hành vi phạm tội vi phạm quy định về xây dựng thực hiện hành vi do vô ý mà chủ yếu là vô ý vì quá tự tin (cố ý về hành vi, vô ý về hậu quả), tức là người thực hiện hành vi vi phạm quy định về xây

dựng thấy trước hành vi vi phạm quy định về xây dựng có thể gây ra gây

thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.


B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ


1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 229 Bộ luật hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 229 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị phạt tiền tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng,

cải tạo không giam giữ

đến ba năm hoặc phạt tù từ

sáu tháng đến năm

năm, là tội phạm nghiêm trọng.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù.


2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 229 Bộ luật hình sự


a. Người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn;


Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.


Điều luật chỉ quy định người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn mà không quy định “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” nên khi xác định trường hợp phạm tội này chỉ cần xác định người có hành vi vi phạm quy định về xây dựng là người có chức vụ, quyền hạn mà không cần xác định họ có lợi dụng chức vụ, quyền hạn hay không. Nói chung người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn thường lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm quy định về xây dựng. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người có chức vụ, quyền hạn nhưng họ không lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhưng họ vẫn vi phạm quy định về xây dựng thì họ vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 2 Điều 229 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Hoàng Công B là Đội trưởng Đội thi công, vì muốn đẩy nhanh tiến độ thi công nên đã cùng với công nhân tự ý thi công không đúng với quy trình, dẫn đến công trình bị sập một phần làm chết một công nhân.


b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

Cấu thành cơ bản của tội phạm này, nhà làm luật không quy định gây hậu quả nghiêm trọng mà chỉ quy định: “gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác”. Những

thiệt hại này chỉ là một phần hậu quả nghiêm trọng, vì hậu quả nghiêm

trọng ngoài những thiệt hại vê tính mạng, sức khoẻ, tài sản thì còn những thiệt hại phi vật chất. Nhưng khoản 2 của điều luật lại quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng, tức là bao gồm cả những thiệt hại phi vật chất.


Đến nay chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng

do hành vi vi phạm quy định về

xây dựng gây ra, nên có thể

vận dụng

Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối

với trường hợp gây hậu quả

rất nghiêm trọng để

xác định hậu quả

rất

nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về xây dựng gây ra.


Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 229 Bộ luật hình sự thì có thể bị phạt phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm

nhẹ

quy định tại Điều 46 Bộ

luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng

hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để phạt bị cáo dưới ba năm tù. Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù.


3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 229 Bộ luật hình sự


Khoản 3 của điều luật chỉ quy định một trường hợp phạm tội, đó là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”.


Tương tự

như

trường hợp gây hậu quả

rất nghiêm trọng, cho đến

nay chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về xây dựng gây ra, nên có thể vận dụng Thông

tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25

tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối

cao, Bộ

Công an, Bộ Tư

pháp hướng dẫn áp dụng một số

quy định tại

Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi vi phạm quy định về xây dựng gây ra.


Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 229 Bộ luật hình sự thì có thể bị phạt phạt tù từ tám năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.


Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới tám năm tù nhưng không được dưới ba năm tù. Nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến hai mươi năm tù.


4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội


Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ

năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.


Khi áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cần chú ý:


Nếu đã áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính thì không áp dụng hình phạt này là hình phạt bổ sung nữa;


Toà án có thể vừa áp dụng hình phạt tiền vừa áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định hoặc chỉ áp dụng một loại hình phạt.


Khi áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thì phải ghi rõ là cấm đảm nhiệm chức vụ gì,

cầm hành nghề gì, cấm làm công việc gì mà không được ghi cấm đảm

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề và làm công việc nhất định một cách chung chung.

8. TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VŨ KHÍ QUÂN DỤNG, PHƯƠNG TIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ


Điều 230. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự


1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm:

a) Có tổ chức;

b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;

c) Vận chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới;

d) Gây hậu qủa nghiêm trọng; đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm:

a) Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến

năm mươi triệu đồng, phạt quản chế năm năm.

hoặc cấm cư trú từ một năm đến


Định nghĩa:

Chế

tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái

phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là hành vi làm ra, cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.


Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là tội phạm thuộc các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Điều 95 Bộ luật hình

sự năm 1985, nay nhà làm luật quy định tội phạm này thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng.


So với Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 230 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung sau:


Bổ sung hành vi “vận chuyển” vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ

thuật quân sự là hành vi phạm tội.


Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1985 cấu tạo 3 khoản, còn Điều 230 Bộ luật hình sự năm 1999, ngoài khoản 5 quy định hình phạt bổ sung thì được cấu tạo thành 4 khoản.


Bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt như: “vận chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới; vật phạm pháp có số lượng rất lớn; gây hậu quả rất nghiêm trọng; vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”.


Do được cấu tạo thành 5 khoản nên hình phạt quy định trong từng khung hình phạt cũng quy định cho phù hợp. Bỏ hình phạt tử hình đối với tội phạm này.


A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM


1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm


Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đến một độ tuổi theo quy

định của Bộ này.

luật hình sự thì đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm



sự về

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và

khoản 4 của điều luật; người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm

hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại

khoản nào của điều luật.


2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm

Tội Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc

chiếm đoạt

vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ

thuật quân sự

là tội xâm

phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.


Đối tượng tác động của tội phạm này là vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.


- Vũ khí quân dụng bao gồm: các loại súng ngắn, súng trường, súng liên thanh; các loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hoá chất độc và nguồn phóng xạ các loại đạn; bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thuỷ lôi,

vật liệu nổ

quân dụng, hoả cụ

và vũ khí khác dùng cho mục đích Quốc

phòng-An ninh8.


Khi xác định đối tượng tác động của tội phạm này cần chú ý: Chỉ có vũ khi quân dụng mới là đối tượng tác động của tội phạm này, còn các loại vũ khí khác như: vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ tuy cũng là vũ khí nhưng nó không phải là vũ khí quân dụng nên có thể là đối tượng của các tội phạm

khác như

tội chế

tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử

dụng, mua bán trái phép

hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ (Điều 233) hoặc là

phương tiện phạm tội của một số tội phạm mà nhà làm luật quy định là tình tiết định khung hình phạt như: tình tiết sử dụng vũ khí đối với các tội: cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.v.v…


- Phương tiện kỹ thuật quân sự bao gồm: các loại máy móc, thiết bị

thông tin, liên lạc; các hệ

thống ra-da; các loại xe cơ

giới; các loại tàu

chiến; các loại khí tài.v.v... dùng cho mục đích Quốc phòng-An ninh. Trong

trường hợp có sự

tranh chấp về

đối tượng tác động thì cần yêu cầu cơ

quan chuyên môn giám định xem có phải là phương tiện kỹ thuật quân sự hay không.


Nếu vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự đã được thanh lý theo đúng quy định của cơ quan Nhà nước hoặc thực tế không còn giá trị sử dụng theo chức năng của từng loại thì không phải là dối tượng tác động của tội phạm này. Tuy nhiên, nếu người phạm tội tưởng lầm là vũ khí

quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự vẫn còn có giá trị sử dụng thì

vẫn coi là đối tượng tác động của tội phạm này. Về lý luận, đây là trường hợp lầm đối tượng tác động. Ví dụ: Trần Văn B vào rừng săn bắn phát hiện một kho vũ khí của Quân giải phóng còn một thùng gỗ đã cũ, B cậy


8 Xem điểm a khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (Ban hành theo Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996)

thùng gỗ thấy bên trong là thủ pháo, B đã lấy 5 quả thủ pháo về cất giấu

với ý định để ném cá, sau 5 tháng B dùng 2 quả thủ pháo đem ném cá ở

Sông Ba thì bị bắt. khám nhà còn thu được 3 quả thủ pháo. Khi đem 5 quả thủ pháo đi giám định thì cả 5 quả đều không còn giá trị sử dụng vì kíp nổ và dây cháy chậm đã bị hỏng.


3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm


a. Hành vi khách quan


Người phạm tội có thể thực hiện một hoặc một số hành vi sau đây:


- Chế tạo trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự


Chế tạo trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là làm ra các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự dưới bất kỳ hình thức nào mà không được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép.


Hành vi chế tạo vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự bao

gồm làm mới hoàn toàn hoặc lắp ráp từ

những bộ

phận của loại vũ khí

quân dụng, phương tiện kỹ

thuật quân sự

này thành vũ khí quân dụng,

phương tiện kỹ thuật quân sự khác cũng có tính năng tác dụng như vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.


Thực tiễn xét xử cho thấy loại hành vi làm mới hoàn toàn ít xảy ra vì việc chế tạo ra vũ khí mà là vũ khí quân dụng không phải là việc làm đơn giản, phải sử dụng các máy móc, thiết bị hiện đại; có chăng chỉ chế tạo ra

các loại vũ khi thô sơ, súng săn, vũ khí thể thao bằng phương pháp thủ

công. Tuy nhiên, nhà làm luật quy định hành vi chế tạo cũng không thừa vì cũng có thể có trường hợp lợi dụng việc được phép chế tạo vũ khí quân dụng mà chế tạo thêm đem trao đổi, buôn bán hoặc cung cấp cho những người mà mình quan tâm nhằm mục đích trục lợi hoặc vì động cơ khác.


- Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự


Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là

cất giữ bất hợp pháp vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự ở

bất cứ nơi nào như: Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức; phương tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách... mà không nhằm mục

Xem tất cả 294 trang.

Ngày đăng: 22/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí