cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 222 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 222 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định
về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị
phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm, là tội ít nghiêm trọng.
Có thể bạn quan tâm!
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 2 Điều 207 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 221 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 3 Điều 221 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 223 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Gây Hậu Quả Đặc Biệt Nghiêm Trọng Thì Bị Phạt Tù Từ Tám Năm Đến Hai Mươi Năm.
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 229 Bộ Luật Hình Sự
Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu người phạm tội thực hiện hành vi do vô ý, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc bị phạt dưới 6 tháng tù. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi do cố ý, có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến ba năm tù.
Đối với nước ngoài phạm tội này, Toà án nên áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, mà không nên áp dụng hình phạt tù, kể cả trường hợp phạm tội do cố ý.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 222 Bộ luật hình sự
Khoản 2 Điều 222 Bộ
luật hình sự
chỉ
quy định một trường hợp
phạm tội , đó là phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng.
Cũng như đối với các tội phạm khác trong chương này, trong khi
chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi điều
khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng
không của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
có thể
vận dụng
Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất đã gây ra cho nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể là:
- Làm chết một người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500
triệu đồng.
Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng.
Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì người phạm tội bị phạt tiền từ ba trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 222 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội thực hiện hành vi do vô ý, hậu quả gây ra tuy là nghiêm trọng nhưng mức độ
thấp hơn trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác (gây thiệt hại từ 50 triệu đến dưới 100 triệu đồng), có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc bị phạt dưới hai năm tù. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi do cố
ý, hậu quả
gây ra có mức độ
lớn hơn trường hợp gây hậu quả
nghiêm
trọng khác (gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 50% đến 60%), có nhiều tình
tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết
giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù.
3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 222 Bộ luật hình sự
Khoản 3 của điều luật quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, nhưng lại có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau,
đó là “gây hậu quả
rất nghiêm trọng và gây hậu quả
đặc biệt nghiêm
trọng”. Đây không phải là trường hợp duy nhất mà trong một số điều luật nhà làm luật cũng quy định hai tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có mức độ nguy hiểm khác nhau trong cùng một khung hình phạt như chúng tôi đã phân tích là chưa phù hợp. Hy vọng khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự vấn đề này sẽ được quan tâm.
Cũng như
đối với trường hợp gây hậu quả
nghiêm trọng, đến nay
chưa có giải thích hoặc hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gây ra, nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương
XIV"Các tội xâm phạm sở
hữu" của Bộ
luật hình sự
năm 1999 đối với
trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gây ra. Cụ thể là:
Nếu điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gây ra hậu quả sau đây thì bị coi là gây hậu quả rất nghiêm trọng:
- Làm chết hai người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, nếu không thuộc trường hợp có ba đến bốn người với tỷ lệ thương
tật của mỗi người từ
61% trở
lên hoặc năm đến bảy người với tỷ lệ
thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.
Nếu điều khiển tàu bay vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gây ra hậu quả sau đây thì bị coi là gây hậu quả đặc biêt nghiêm trọng:
- Làm chết ba người trở lên;
- Làm chết hai người và còn gây
tổn hại cho sức khoẻ của một đến
hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
- Làm chết một người và còn gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến
bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
- Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở
lên.
Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào
từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng hay không.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 222 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm trăm triệu đồng đến một tỷ đồng hoặc bị phạt tù từ năm năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể phạm tội chỉ gây hậu quả rất nghiêm trọng thì có thể được áp dụng hình phạt tiền hoặc áp dụng hình phạt dưới năm năm tù nhưng không được dưới hai năm.
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì có thể bị phạt đến mười năm tù.
4. Biện pháp tư pháp đối với người phạm tội
Khoản 4 của điều luật quy định: “phương tiện bay có thể bị tịch thu” là một biện pháp tư pháp chứ không phải là hình phạt bổ sung. Do đó, khi áp dụng khoản 4 Điều 222 Bộ luật hình sự không nên coi là hình phạt bổ sung.
5. TỘI ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG TIỆN HÀNG HẢI VI PHẠM CÁC
QUY ĐỊNH VỀ HÀNG HẢI CỦA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Điều 223. Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Người nào điều khiển tàu thuỷ hay phương tiện hàng hải khác vào hoặc ra khỏi Việt Nam hoặc đi qua lãnh hải Việt Nam mà vi phạm các quy
định về
hàng hải của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, nếu
không thuộc trường hợp quy định tại Điều 80 và Điều 81 của Bộ luật này,
thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tiền từ hai trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến ba năm.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng, thì bị
phạt tiền từ
năm trăm triệu đồng đến tám trăm triệu đồng
hoặc phạt tù từ ba năm đến bảy năm.
4. Phương tiện hàng hải có thể bị tịch thu.
Định nghĩa: Điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định
về hàng hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hành vi của
người điều khiển tàu thuỷ hay phương tiện hàng hải khác vào hoặc ra khỏi Việt Nam mà vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và không thuộc trường hợp phạm tội gián điệp quy
định tại Điều 80 Bộ luật hình sự và tội xâm phạm an ninh lãnh thổ quy
định tại Điều 81 Bộ luật hình sự.
Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tội phạm đã được quy định tại Điều 91 Bộ luật hình sự năm 1985 là tội xâm phạm an ninh quốc gia, nay do yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nên nhà làm luật không xếp vào các tội xâm phạm an ninh quốc gia nữa mà là tội xâm phạm trật tự công cộng.
So với Điều 91 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung sau:
Về tên tội danh, Điều 91 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “tội vi phạm các quy định về hàng hải”, nay Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định cụ thể hơn, đó là “tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm
các quy định về Nam”.
hàng không
của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt
Điều 223 Bộ luật hình sự năm 1999 cấu tạo thành 4 khoản, trong đó khoản 2 và khoản 3 là cấu thành tăng nặng, khoản 4 quy định biện pháp xử lý phương tiện dùng vào việc phạm tội (không phải là hình phạt bổ sung);
bổ sung tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng” là yếu tố định khung hình phạt tại khoản 3 của điều luật; về hình phạt, tuy bổ sung thêm khoản 3 nhưng mức hình phạt cao nhất đối với tội
phạm này vẫn là bảy năm tù; hình phạt tiền là hình phạt chính cũng được quy định lại cho phù hợp.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biêt. Tuy nhiên, chỉ có người điều khiển tàu thuỷ hay phương tiện hàng hải khác mới là chủ thể của tội phạm này.
Chủ thể của tội phạm này có thể là người Việt Nam nhưng chủ yếu là người nước ngoài, người không có quốc tịch, vì tội phạm này chủ yếu xâm phạm đến an ninh lãnh thổ, vi phạm các hiệp định về hàng hải giữa
Việt Nam với các nước trên thế giới.
Người điều khiển phương tiện hàng hải có thể là một người nhưng cũng có thể là nhiều người (Đoàn thuỷ thủ). Tuy nhiên, nếu là vụ án có tổ chức thì những đồng phạm khác không nhất thiết phải là người điều khiển phương tiện hàng hải.
2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
như
Mặc dù tội phạm này không còn là tội xâm phạm an ninh quốc gia trước đây, nhưng do tính chất nguy hiểm của hành vi điều khiển
phương tiện hàng hải nên ngoài việc xâm phạm đến an toàn vùng biển, tội phạm này còn xâm phạm đến an ninh lãnh thổ trên biển.
Đối tượng tác động của tội phạm này là tàu bay bao gồm: Tàu thuỷ và các phương tiện hàng hải khác như: thuyền và các cấu trúc nổi khác, có động cơ hoặc không có động cơ chuyên hoạt động trên biển.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội thực hiện hành vi khách quan duy nhất là hành vi vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về
việc điều khiển tàu thuỷ
và các phương tiện hàng hải khác vào
hoặc ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Nếu chỉ xét riêng hành vi khách quan thì hành vi khách quan của
người phạm tội này giống với hành vi khách quan của người phạm tội “vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường thuỷ” quy định
tại Điều 212 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, người phạm tội “vi phạm quy
định điều khiển phương tiện giao thông đường thuỷ” chỉ vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông đường thuỷ, còn người phạm tội vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vi phạm quy định về vào hoặc ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Người điều khiển phương tiện hàng hải vào hoặc ra khỏi lãnh thổ Việt Nam có thể không vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông
đường thuỷ, mà chỉ vi phạm các quy định của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về
vào, ra lãnh thổ
Việt Nam như: như lái tàu thuỷ vào
lãnh thổ Việt Nam mà không được phép của cơ quan có thẩm quyền của nước Công hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Căn cứ để xác định hành vi điều khiển phương tiện hàng hải vào
hoặc ra khỏi lãnh thổ Việt Nam có vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hay không là các quy định
của Luật hàng hải Việt Nam và những điều tham gia hoặc phê chuẩn về lĩnh vực hàng hải.
ước quốc tế
mà Việt Nam
b. Hậu quả
Hậu quả của hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện hàng hải vào hoặc ra khỏi lãnh thổ Việt Nam không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này nhưng việc xác định hậu quả là rất cần thiết.
Nếu hậu quả xảy ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Ngoài hành vi khách quan, đối với tội phạm này nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, đó là: các quy định của Luật hàng hải và những điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc phê chuẩn về lĩnh vực hàng hải và hành vi phạm tội không thuộc trường hợp quy định tại Điều 80 và Điều 81 Bộ luật hình sự.