Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP TỊCH THU VẬT, TIỀN TRỰC TIẾP LIÊN QUAN ĐẾN TỘI PHẠM
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TỊCH THU VẬT, TIỀN TRỰC TIẾP LIÊN QUAN ĐẾN TỘI PHẠM
1.1.1. Quan niệm chung về biện pháp tư pháp
Khi thực hiện tội phạm thì cá nhân người phạm tội sẽ phải gánh chịu một hậu quả pháp lý bất lợi nhất định trước Nhà nước về hành vi phạm tội của mình. Hậu quả pháp lý bất lợi đó chính là TNHS, được thực hiện bằng hình phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác theo quy định của BLHS. Nguyên tắc không tránh khỏi TNHS khi thực hiện tội phạm là một trong các nguyên tắc cơ bản của LHS Việt Nam, là nguyên tắc nhằm đảm bảo sự công bằng và bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, bảo vệ trật tự pháp luật và giáo dục công dân ý thức tuân thủ pháp luật.
Hệ thống các dạng TNHS gồm có:
- Các biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất: các hình phạt chính và hình phạt bổ sung (Từ Điều 29 đến Điều 40 – BLHS năm 1999).
- Các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác (ít nghiêm khắc hơn hơn hình phạt), gồm:
+ Các biện pháp tư pháp chung (Từ Điều 41 đến Điều 44 – BLHS năm 1999).
Có thể bạn quan tâm!
- Biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm trong luật hình sự Việt Nam - 1
- Biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm trong luật hình sự Việt Nam - 2
- Vai Trò Của Biện Pháp Tịch Thu Vật, Tiền Trực Tiếp Liên Quan Đến Tội Phạm
- So Sánh Giữa Biện Pháp Tịch Thu Vật, Tiền Trực Tiếp Liên Quan Đến Tội Phạm Và Hình Phạt Tịch Thu Tài Sản
- So Sánh Giữa Biện Pháp Tịch Thu Vật, Tiền Trực Tiếp Liên Quan Đến Tội Phạm Trong Lhs Việt Nam Và Hình Phạt Tịch Thu Tài Sản Trong Lhs Pháp
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
+ Các biện pháp cưỡng chế về hình sự có tính chất giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội (Biện pháp tư pháp riêng) – các biện pháp thay thế hình phạt (Điều 70 – BLHS năm 1999) [8, tr. 614].
Về chế định hình phạt thì đã được ghi nhận khá rõ ràng và thống nhất trong hệ thống pháp luật hình sự nước ta. Trong khi
đó, trong LHS của nước ta từ trước đến nay (BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999) lại chưa có khái niệm pháp lý nào về biện pháp tư pháp. Tuy nhiên, nó cũng đã được một số nhà hình sự học đề cập đến trong khoa học luật hình sự. Và tựu chung lại đều thống nhất một quan điểm, như GS.TSKH Lê Cảm đã nêu trong Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung) – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005:
Biện pháp tư pháp (bao gồm biện pháp tư pháp chung và biện pháp tư pháp riêng) là biện pháp cưỡng chế hình sự của Nhà Nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy định và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt [8, tr. 679].
Từ khái niệm khoa học của biện pháp tư pháp, có thể chỉ ra 06 (sáu) đặc điểm cơ bản của biện pháp tư pháp như sau:
Thứ nhất, các biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt. Và hậu quả pháp lý của việc áp dụng biện pháp tư pháp là người phạm tội không bị coi là có án tích (như khi áp dụng hình phạt) nếu như biện pháp tư pháp được áp dụng độc lập đối với người phạm tội mà không kèm theo hình phạt (Ví dụ: khi người phạm tội được miễn hình phạt).
Thứ hai, với tính chất là một dạng của TNHS và là một hình thức để thực hiện TNHS trong văn bản của cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền, biện pháp tư pháp cũng chỉ có thể xuất
hiện khi có sự việc phạm tội, bởi lẽ, nếu không có tội phạm thì cũng không thể có biện pháp tư pháp với tính chất là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn hình phạt.
Thứ ba, trong khi việc áp dụng hình phạt chỉ có thể do một cơ quan tư pháp hình sự duy nhất, đó là Tòa án, và chỉ áp dụng đối với người bị kết án nói riêng thì biện pháp tư pháp lại có chủ thể áp dụng rộng hơn. Căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, biện pháp tư pháp hỗ trợ hình phạt (từ điều 41 đến điều 43 – BLHS năm 1999) có thể do các cơ quan tư pháp hình sự khác nhau có thẩm quyền áp dụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án) và đối với người phạm tội nói chung (cả bị can, bị cáo, người phạm tội và người bị kết án), còn biện pháp tư pháp thay thế cho hình phạt (Điều 70 – BLHS năm 1999) chỉ do Tòa án áp dụng và chỉ đối với người bị kết án nói riêng.
Thứ tư, mục đích của biện pháp tư pháp chỉ là nhằm hạn chế chứ không tước đoạt quyền, tự do của người phạm tội. Trong khi hình phạt có thể tước đoạt quyền nhân thân hoặc thậm chí là tước đoạt tính mạng của người phạm tội thì các biện pháp tư pháp chỉ có thể hạn chế một số quyền nhân thân của người phạm tội, thậm chí có một số biện pháp tư pháp xét về mặt xã hội còn mang lại lợi ích cho người phạm tội (như biện pháp bắt buộc chữa bệnh, đưa vào trại giáo dưỡng). Ngoài ra, biện pháp tư pháp còn nhằm mục đích hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt.
Thứ năm, biện pháp tư pháp được quy định trong pháp luật hình sự và phải do cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự đặc biệt do luật tố tụng hình sự quy định.
Thứ sáu, biện pháp tư pháp chỉ mang tính chất cá nhân vì
theo pháp luật hình sự Việt Nam nó chỉ được áp dụng đối với riêng bản thân người phạm tội [9, tr. 258].
Về việc phân loại, dựa vào đối tượng áp dụng, có thể chia các biện pháp tư pháp thành 2 loại:
- Biện pháp tư pháp chung áp dụng cả với người đã thành niên và người chưa thành niên phạm tội, gồm có:
+ Biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 41 – BLHS năm 1999).
+ Biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi (Điều 42 – BLHS năm 1999).
+ Biện pháp bắt buộc chữa bệnh (Điều 43 – BLHS
năm 1999).
- Biện pháp tư pháp riêng chỉ áp dụng với người chưa thành niên phạm tội, gồm có:
+ Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 70 – BLHS năm 1999).
+ Đưa vào trường giáo dưỡng (Điều 70 – BLHS
năm 1999).
Bộ luật hình sự quy định các biện pháp tư pháp chung và riêng là góp phần giúp cho các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền vận dụng linh hoạt, mềm dẻo và đúng đắn chính sách hình sự của Nhà nước ta. Đồng thời, điều đó còn phản ánh việc áp dụng hình phạt với tư cách là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do luật hình sự quy định không phải là phương tiện duy nhất trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
1.1.2.1. Khái niệm biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
Trước đây và hiện nay, nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm là một trong những công việc quan trọng của Nhà nước, của các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật và toàn xã hội. Bên cạnh việc phát hiện tội phạm thì việc xử lý, trừng trị tội phạm để hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra, đồng thời ngăn chặn người phạm tội phạm tội mới, răn đe những người trong xã hội không phạm tội là việc làm không thể thiếu trong nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm. Như vậy, việc nghiên cứu khái niệm biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
BLHS năm 1985 gọi biện pháp này là “biện pháp tịch thu vật và tiền bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm”, đến BLHS năm 1999 tên gọi của nó được sửa lại thành “biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm”. Thực ra, về bản chất, hai tên gọi này không hề mâu thuẫn gì với nhau mà chỉ là sự sửa đổi để nâng cao kỹ thuật lựa chọn ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong luật phải đảm bảo tính nghiêm túc, khách quan, chính xác, dễ hiểu, một nghĩa, tránh sử dụng từ ngữ tối nghĩa hoặc sai nghĩa, không thể hiện đúng nội dung, gây ra những cách hiểu khác nhau. Việc giải thích và sử dụng ngôn ngữ tránh dài dòng, mập mờ, đa nghĩa, khó hiểu gây ra xung đột về nhận thức và thực hiện trong thực tế. Ngôn ngữ trong luật phải đảm bảo tính phổ thông, thống
nhất, không được lạm dụng từ nước ngoài. Vì thế, việc sửa đổi này là hoàn toàn hợp lý để tránh sự dài dòng không cần thiết.
Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm là biện pháp tư pháp chung áp dụng cả với người đã thành niên và người chưa thành niên phạm tội. Biện pháp này được quy định trong LHS nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nêu đối tượng tịch thu và phạm vi tịch thu. Cũng như biện pháp tư pháp, trong LHS của nước ta từ trước đến nay (BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999) chưa có khái niệm pháp lý nào về biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, và kể cả trong ngành khoa học luật hình sự nó cũng chưa được các nhà hình sự học đề cập đến. Trong các giáo trình luật hình sự cũng như trong các nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự biện pháp này chỉ được liệt kê tên gọi và nội dung tịch thu trong hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp. Có thấy trong Chương VI – Các biện pháp tư pháp của ThS. Trần Minh Hưởng (Sách Bình luận khoa học Bộ luật hính sự năm 1999 (Phần chung), tập thể tác giả, do ThS. Trần Minh Hưởng chủ biên, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 2002) có nêu khái niệm của từng biện pháp tư pháp nhưng lại trừ biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm không được nêu khái niệm. Đó chính là một trong những thiếu sót của cuốn sách tham khảo này. Từ đó, phải khẳng định việc đưa ra một khái niệm cho biện pháp tư pháp này là thực sự cần thiết và mang tính cấp bách.
Tuy chưa có một nhận định nào về khái niệm biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm nhưng có thể dựa vào bản chất của biện pháp này để đưa ra khái niệm như sau:
Biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm là biện pháp tư pháp buộc người phạm tội hoặc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội giao nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội mà có hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; hoặc vật Nhà nước cấm lưu hành nhằm ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc gây nguy hiểm cho xã hội.
1.1.2.2. Đặc điểm của biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
Vì biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm là một biện pháp tư pháp nên nó có đầy đủ 06 (sáu) đặc điểm cơ bản của biện pháp tư pháp, đó là:
Thứ nhất, biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt. Và hậu quả pháp lý của việc áp dụng biện pháp này là người phạm tội không bị coi là có án tích (như khi áp dụng hình phạt) nếu như biện pháp này được áp dụng độc lập đối với người phạm tội mà không kèm theo hình phạt (Ví dụ: khi người phạm tội được miễn hình phạt).
Thứ hai, biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm cũng chỉ có thể xuất hiện khi có sự việc phạm tội, bởi lẽ, nếu không có tội phạm thì cũng không thể có biện pháp tư pháp với tính chất là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn hình phạt.
Thứ ba, căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm có thể do các cơ quan tư pháp hình sự khác nhau có thẩm quyền