Một Số Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giam Trên Địa Bàn Tỉnh Bắc Kạn

rằng, việc thu hẹp đối tượng có thẩm quyền quyết định áp dụng BPTG là không khả thi, mà vấn đề chủ yếu là xây dựng pháp luật hoàn chỉnh, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, có cơ chế kiểm soát hiệu quả của các tổ chức, công dân…

Với tính cấp thiết trong áp dụng của BPTG, mô hình tố tụng thẩm vấn, cũng như điều kiện địa lý, điều kiện làm việc của Việt Nam, tác giả cho rằng việc chỉ giao cho Tòa án có thẩm quyền quyết định áp dụng BPTG là đúng về bản chất tổ chức, hoạt động tư pháp, nhưng chưa khả thi.

Theo tác giả không đồng ý với quan điểm cho rằng, nên giữ nguyên thẩm quyền như hiện nay hoặc chỉ giao cho Viện trưởng VKS các cấp, Chánh án Tòa án các cấp và Hội đồng xét xử thẩm quyền này. Viện trưởng VKS và Chánh án Tòa án các cấp là chức danh quản lý hành chính của các cơ quan VKS và Tòa án, đây không phải là chức danh tư pháp khi Kiểm sát viên, Thẩm phán được giao nhiệm vụ tiến hành tố tụng (THTT) trong vụ án. Viện trưởng VKS, Chánh án Tòa án thường không phải là người trực tiếp THTT mà họ chỉ ban hành quyết định thông qua sự tham mưu của những người trực tiếp THTT. Việc ra quyết định áp dụng BPTG của các đối tượng này chỉ là hình thức, bởi nội dung là kết quả của quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án của Thẩm phán, việc nghiên cứu hồ sơ và tham gia kiểm sát hoạt động điều tra của Kiểm sát viên. (Tương tự như vậy là việc ban hành quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp, Phó Viện trưởng, Phó Chánh án theo quy định của pháp luật hiện hành). Do đó, theo chúng tôi, cần cho phép những người trực tiếp THTT ra quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn. Bởi lẽ, họ là người trực tiếp theo dõi vụ án, trực tiếp THTT nên họ hiểu rõ hơn ai hết liệu có thật sự cần thiết áp dụng BPTG hay không. Đặc biệt, mặc dù Tòa án hoạt động theo nguyên tắc xét xử tập thể nhưng Thẩm phán chủ tọa phiên tòa vẫn là người

giữ vai trò quyết định nhất trong số các thành viên Hội đồng xét xử, trực tiếp nghiên cứu hồ sơ, thậm chí, họ có thể tự mình ra các quyết định về nội dung vụ án như đình chi vụ án, trả hồ sơ để điều tra bổ sung... Giao cho người trực tiếp THTT thẩm quyền áp dụng BPTG không chỉ vừa có giá trị thực tế mà còn tăng tính trách nhiệm của họ trong THTT. Đồng thời, cũng không trái với tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW là "tăng quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình”.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng cho rằng, không nên quy định cho phép Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp thẩm quyền quyết định áp dụng BPTG. Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng cho thấy, quyền áp dụng của những người này không phải là thẩm quyền độc lập; quyết định tạm giam, bắt tạm giam của họ phải được sự phê chuẩn của VKS cùng cấp mới có hiệu lực pháp luật. Do đó, cần bỏ thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPTG của các đối tượng này, thay vào đó là quyền đề nghị VKS áp dụng BPTG, nếu thấy có căn cứ và cần thiết. Mặt khác, theo chúng tôi, biện pháp bắt người để tạm giam và BPTG hiện nay được quy định là hai biện pháp ngăn chặn độc lập với nhau, trong đó, BPTG là cơ sở cho việc áp dụng biện pháp bắt người để tạm giam. Việc quyết định áp dụng BPTG do cơ quan, người THTT thực hiện, còn việc thực hiện biện pháp đó có thể giao cho cơ quan Cảnh sát hỗ trợ tư pháp thực hiện. Do đó, cần phân biệt thẩm quyền của hai loại đối tượng này.

3.2.4. Về thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam

Hoàn thiện các quy định về thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn nói chung, BPTG nói riêng trong các giai đoạn tố tụng theo hướng người có thẩm quyền phải thay đổi, hủy bỏ biện pháp đó khi không còn căn cứ hoặc hết thời gian pháp luật quy định. Với tinh thần đó, có thể hoàn thiện một số điều luật như sau:

Sửa đổi căn cứ hủy bỏ BPTG trong giai đoạn điều tra. Theo khoản 6 điều 120 BLTTHS thì trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam… Căn cứ “Xét thấy không cần thiết” để hủy bỏ BPTG là không xác định, hoàn toàn mang tính chủ quan của người áp dụng;

Trong thực tiễn tố tụng, các trường hợp tạm giam, nhất là tạm giam đối với bị can phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng theo căn cứ là họ có thể cản trở việc điều tra (như thông cung, không có mặt khi triệu tập, mua chuộc người làm chứng…); thì khi kết thúc điều tra, căn cứ đó sẽ không còn nữa. Thế nhưng để cho thuận tiễn, Viện kiểm sát không hủy bỏ hoặc thay đổi BPTG đó. Vì vậy, cần phải sửa đổi khoản 6 Điều 120 BLTTHS như sau: “Trong khi tạm giam, nếu căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam không còn nữa thì cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam…”. Có như vậy mới làm cho việc áp dụng biện pháp có căn cứ rõ ràng, nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và thể hiện cụ thể nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân là khi tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải “…thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó…”.

Bổ sung vào khoản 2 Điều 166, điều 177 BLTTHS căn cứ áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Các điều luật này chỉ quy định thẩm quyền của Viện kiểm sát, Tòa án trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn mà không quy định căn cứ của việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ đó, Điều này tạo ra sự tùy tiện trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử. Vì vậy, cần sửa đổi bổ sung các điều luật trên theo hướng: sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát, Tòa án có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn khi có căn cứ được quy định tại các điều 88, điều 91, điều 92, điều 93 BLTTHS, có

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

trách nhiệm thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đó khi không còn căn cứ áp dụng.

Đồng thời, với những phân tích trên, cần hoàn thiện Điều 94 BLTTHS theo hướng: 1/ Khi vụ án bị đình chỉ thì mọi biện pháp ngăn chặn đã áp dụng đều phải được hủy bỏ; 2/ Khi thời gian áp dụng biện pháp ngăn chặn đã hết thì biện pháp đó phải được hủy bỏ; 3/ Cơ quan điều tra, viện kiểm sát, Tòa án phải hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hoặc thay thế bằng một biện pháp khác khi không còn căn cứ áp dụng.

Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Kạn - 11

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn

3.3.1.Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc áp dụng pháp luật về biện pháp tạm giam trong hoạt động giải quyết các vụ án hình của các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Kạn

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là nguyên tắc tối cao, là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho mọi thắng lợi và đã được quy định trong Hiến pháp nước ta. Cương lĩnh chính trị của Đảng ta khẳng định:

Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hoạt động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những Đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị [19, tr.132].

Từ đó cho ta nhận thức Đảng lãnh đạo bằng các hình thức:

- Lãnh đạo đường lối chính trị đối với các cơ quan tiến hành tố tụng.

- Lãnh đạo bằng hình thức giáo dục tư tưởng, chăm lo đời sống vật chất tinh thần, kiểm tra hoạt động thực hiện đường lối chính trị về hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng

- Lãnh đạo bằng sư gương mẫu của các cấp ủy Đảng, của đảng viên trong việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

- Lãnh đạo bằng việc giới thiệu cho các cơ quan tiến hành tố tụng các đảng viên ưu tú và cử các đảng viên có năng lực phẩm chất giữ vai trò lãnh đạo trong các cơ quan tiến hành tố tụng.

- Đồng thời Đảng không cho phép việc Đảng làm thay, can thiệp sâu vào hoạt động tố tụng các vụ việc cụ thể của của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Kạn cần thực hiện tốt những nội dung sau:

- Phải quán triệt, nắm vững và vận dụng sáng tạo các quan điểm, đường lối, Nghị quyết của các cấp ủy Đảng. Đồng thời phải thường xuyên tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh Ủy, của Đảng ủy, chi bộ cơ quan trong việc giải quyết những vấn đề phức tạp, có tính thời sự và những vụ việc mà dư luận quan tâm; trong vấn đề quản lý đảng viên, trong việc xây dựng kế hoạch, quy hoạch đề bạt và bổ nhiệm các chức vụ quản lý, chức danh tư pháp để lựa chọn được những người có đầy đủ phẩm chất đạo đức, có năng lực, trình độ chuyên môn đảm nhiệm những vị trí quan trọng, đáp ứng được yêu cầu công tác trong tình hình mới hiện nay.

- Tranh thủ ý kiến chỉ đạo của Tỉnh Ủy, cấp ủy Đảng địa phương để nắm bắt được những yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương, đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm an ninh trật tự, từ đó đề ra kế hoạch công tác, xây dựng đội ngũ cán bộ cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.

- Thực hiện nghiêm túc các kế hoạch kiểm tra của cấp ủy đảng. Đây là phương thức phổ biến, thường xuyên được các cấp ủy Đảng thực hiện, thông quan đó đánh giá ưu, khuyết điểm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ để từ đó có các chủ trương lãnh đạo, kiện toàn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh Bắc Kạn.

3.3.2. Tăng cường công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về biện pháp tạm giam

Để hoàn thiện pháp luật LTTHS, đảm bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật về BPTG, cần sửa đổi những quy định còn bất cập, bổ sung những quy định mới nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng được chính xác, khách quan và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cần phải tăng cường việc hướng dẫn áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật LTTHS của các cơ quan có thẩm quyền.

Về chế định biện pháp ngăn chặn, đã có nhiều văn bản hướng dẫn để các các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thống nhất. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng BPTG, đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn bổ sung một số trường hợp để thực hiện thống nhất và giải quyết những vướng mắc hiện nay như:

- Các cơ quan tiến hành tố tụng cần hướng dẫn cụ thể về căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng, trình tự, thủ tục áp dụng một cách cụ thể.

- Hướng dẫn về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không giam giữ như bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm nhằm giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng tăng cường áp dụng các biện pháp này. Hiện nay trong thực tiễn có quan điểm sai lầm cho rằng đã là bị can, bị cáo trong một vụ án thì phải áp dụng biện pháp ngăn chặn; quan niệm như vậy có đúng không cũng cần phải thống nhất. Cần hướng dẫn áp dụng thống nhất Điều 93 BLTTHS về mức tiền phải đặt, thẩm quyền và thủ tục sung quỹ Nhà nước số tiền đặt để các cơ quan tiến hành tố tụng không gặp vướng mắc khi áp dụng biện pháp ngăn chặn này.

- Các cơ quan tiến hành tố tụng cần hướng dẫn cụ thể, thống nhất về một số kỹ năng, thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm việc ADPL về tạm giam. Cụ thể như trình tự, thủ tục áp dụng, sự tham gia của người bào chữa vào quá

trình tố tụng, tăng cường hơn nữa quyền tranh tụng dân chủ của người tham gia tố tụng, nhất là bị cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Trên đây chỉ là một số vấn đề điển hình về chế định biện pháp ngăn chặn cần được sự giải thích và hướng dẫn chính thức của các cơ quan có thẩm quyền. Ngoài những vấn đề tác giả đưa ra nên trên, còn có nhiều vấn đề liên quan đến áp dụng chế định biện pháp ngăn chặn cần phải được giải thích, hướng dẫn cụ thể để tạo cơ sở pháp lý cho những người làm công tác áp dụng pháp luật trong hoạt động tố tụng nhất là việc ADPL về biện pháp ngăn chặn được thuận lợi, chính xác và hiệu quả.

Qua thực tiễn công tác ADPL về biện pháp ngăn chặn tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Kạn cho thấy, công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật là rất quan trọng và cần thiết, đây cũng là công tác khó khăn, phức tạp đòi hỏi khả năng trí tuệ cao. Để thực hiện có hiệu quả, các cơ quan có thẩm quyền cần phải rà soát, nghiên cứu và từng bước đổi mới công tác giải thích hướng dẫn ADPL nói chung và ADPL về biện pháp ngăn chặn nói riêng, để góp phần nâng cao chất lượng của việc ADPL về biện pháp ngăn chặn trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự nhằm đảm bảo ADPL được thống nhất.

3.3.3. Tăng cường tổng kết kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng làm cơ sở cho hoạt động áp dụng pháp luật về biện pháp tạm giam được thực hiện thống nhất

Tổng kết rút kinh nghiệm việc ADPL về áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và về tạm giam nói riêng trong hoạt động giải quyết án hình sự là một nhiệm vụ quan trọng của cơ quan tiến hành tố tụng. Bởi lẽ, thông qua hoạt động tổng kết rút kinh nghiệm về những gì làm được và những gì chưa làm được, còn có những thiếu sót, tồn tại về nhận thức pháp luật. Để từ đó, rút ra được bài học kinh nghiệm về ADPL về BPTG trong hoạt động xét

xử các vụ án hình sự. Qua đó, thấy được những quy phạm pháp luật nào phù hợp với thực tế, quy phạm pháp luật nào không còn phù hợp cần sửa đổi bổ sung, để có những kiến nghị, đề xuất xem xét, sửa đổi, giải thích, hướng dẫn ADPL thống nhất đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Như vậy, việc tổng kết kinh nghiệm ADPL trong hoạt động TTHS, trong phạm vi cả nước nói chung và ở tỉnh Bắc Kạn nói riêng có một ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng ADPL về BPTG. Do vậy các cơ quan tiến hành tố tụng cần tập trung làm tốt công tác kiểm tra, giám sát. Để làm tốt công tác tổng kết, rút kinh nghiệm trong ADPL về BPTG, cần cập nhật thường xuyên kịp thời kết quả giải quyết án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hoạt động kiểm tra án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Kạn trong những năm quan đạt được nhiều kết qủa đáng khích lệ. Cụ thể, qua công tác kiểm tra đã phát hiện được một số tồn tại như áp dụng BPTG không đủ điều kiện, thời hạn tạm giam áp dụng quá dài... Kết quả của công tác kiểm tra, sau đó đã được các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Kạn tổng kết để rút kinh nghiệm trong toàn ngành, qua đó chỉ ra những sai lầm, thiếu sót trong việc ADPL về BPTG trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác kiểm tra của các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Kạn cũng còn bộc lộ một số hạn chế như: Công tác kiểm tra nhiều khi chưa được tiến hành kịp thời; việc kiểm tra có trường hợp đã không phát hiện được những thiết sót, sai lầm của việc ADPL về BPTG của một số vụ án; Việc kiểm tra chưa mang tính thường xuyên, còn mang nặng tính hình thức điều này cũng làm ảnh hưởng đến công tác kiểm tra của các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh.

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ này, các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bắc Kạn cần phải thực hiện tốt một số giải pháp sau:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/11/2023